Wednesday, April 29, 2020

KISSINGER, TÊN TÔI ÁC ĐỐI VỚI VNCH

 ** Chúng ta cùng nhau đọc thật kỹ bài viết của Bác sĩ Đặng Vũ Ái.
Đọc xong, chúng ta đừng trách móc lẫn nhau nữa.  
Trân Trọng Kính Chuyển…
Cầu xin cái chết già với triệu lần đầy đọa & đau đớn đến với Henry Kissinger. Lời chúc mừng chung vui hãy gọi hắn là “tên tội đồ Do Thái bẩn thỉu”.
Xin cho vạn lời than oán nguyền rủa tên Do Thái già Henry Kissinger tội lỗi & độc ác này.

Thưa Anh Chị Em và Đồng Bào qúy mến  ,
Nhiều năm trước đây tôi đã đọc bài viết tựa đề “The CIA In Vietnam War” = “Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ Trong Chiến Tranh Việt Nam” đăng trong số phát hành tháng 8 – 1989 của nguyệt san Vietnam Magazine, USA (tạp chí bằng Anh ngữ của Mỹ). Trong bài nầy, phỏng vấn viên Lynch (đã là một cựu chiến binh đã từng chiến đấu tại Việt Nam) hỏi ông Thomas Polgar là cựu Giám Đốc CIA Vùng Đông Dương của Mỹ lúc bấy giờ (tháng 4 – 1975 đang có mặt tại Việt Nam) rằng: “Ông đã có mặt tại Nam Việt Nam từ đầu năm 1974, vậy thì ông và CIA của Mỹ có biết trước về cuộc tấn công ồ ạt và toàn lực của Cộng Sản Bắc Việt nhào vào đánh chiếm cướp mất Miền Nam Việt Nam Tự Do hay không ??? – Ông Polgar (đã là một trong số những người Mỹ sau cùng , cuối cùng rút ra, di tản ra khỏi Việt Nam) trả lời rằng: – Có chứ, hẳn nhiên là phải biết trước về các cuộc tấn công hung bạo và ác độc đó của Cộng Sản Bắc Việt. Tháng 9-1974 tôi đã gởi báo cáo tối mật và tối khẩn về Washington cho biết rằng CS Bắc Việt đang ra sức điều động các binh đoàn của nó để tổng tấn công Miền Nam của VNCH… Trong tháng 9 và tháng 10-1974 tôi đã gởi báo cáo tối mật, tối khẩn như vậy liên tiếp mấy lần, và rồi tôi cũng rất sốt ruột nên đã báo cáo đều đều như vậy trong mấy tháng sau đó, tôi nói rằng bộ đội CS Bắc Việt đang bắt đầu di chuyển để tiến vào đánh chiếm Miền Nam… Nhưng tôi đã không thấy có sự đáp ứng , phản ứng nào của Washington về các báo cáo đó của tôi và về các cuộc tấn công  khởi đầu của Cộng Sản Bắc Việt… 
Mãi đến sau nầy, sau khi đã di tản ra khỏi Việt Nam và trở lại Mỹ Quốc, tôi về Washington để tìm hiểu xem những điều gì đã xảy ra cho các báo cáo tối mật và tối khẩn kia của tôi…   Tôi đã đào xới, bới móc tất cả các đống hồ sơ mật của Tòa Bạch Ốc của Tổng Thống và của Văn Phòng Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của ông Henry Kissinger… và cuối cùng tôi đã tìm thấy được chúng ở tận đáy các thùng hồ sơ của ông Henry Kissinger và rồi lúc đó tôi mới có thể đưa trình chúng cho Tổng Thống xem… Ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger đã cố tình giấu giếm các báo cáo tối mật, tối khẩn của tôi… Ông đã cố tình làm hư , làm hỏng mọi điều, mọi sự… Ông đã cố tình chủ mưu bỏ rơi VNCH và để cho Cộng Sản chiếm lấy, cướp lấy, thống trị Miền Nam, cai quản, chỉ huy toàn thể đất nước Việt Nam… !!!… Thật là qúa đau buồn , cay đắng và chua xót cho VNCH và Miền Nam Việt Nam Tự Do, Dân Chủ… !!!”…     
Chí Sỹ Trần Trọng Miên.

Toàn bài của BS Đặng Vũ Ái, Paris
Sự tàn ác của Tập Đoàn Do Thái đối với Việt Nam Cộng Hòa

Kính Thưa Quý vị,

Tôi ở trong nhóm ANAI (Association Nationale des Anciens de l’Indochine : Hội cuả những người đã ở Đông Dương), do Trung Tướng SIMON làm Chủ Tịch. Đa số Hội Viên là những Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan PHÁP đã từng đụng độ với Việt Minh (1946-1954). Về phiá VN, thì là những Boat People, có nhiều người chạy trốn ”Bác Hồ” tới 2 lần : 1954 và 1975……
Tôi là Bắc Kỳ Di Cư, và đã được mắt thấy, tai nghe những sự tàn ác của Việt Minh : thủ tiêu, tản cư bao nhiêu lần, và mỗi lần, lại nghèo thêm, và nhất là thấy tận mắt, những điều trái với luân lý, trái với tình người (cháu thủ tiêu chú ruột, bắt qùy, đọc bản án viết tay, lấy đá đập vào đầu chú cho đến chết ( Chết trong đau đớn ) vì phải “để dành đạn bắn quân thù”, theo lời dậy dỗ cuả Bác.  Sau đó, cho xác chú vào bao bố, bỏ thêm vài hòn đá cho nặng. Và cho xác chú đi mò tôm…. Tất cả, chỉ vì tin đồn, chụp mũ, vu khống , cáo gian không chứng cớ rằng chú là Việt Gian.. !!! ….

UNESCO,vào những năm 1980…. có nhiều người Phi Châu giữ những chức vụ quan trọng, rất thân phe CS, và mỗi kỳ họp là MỸ bị đem ra chửi, hoặc chế diễu. MỸ chống CS, vậy kỳ ấy, MỸ rút ra khỏi UNESCO là danh chính ngôn thuận, khác với vụ PALESTINE kỳ này.

Hơn thế nữa, trong kỳ ấy, MỸ đã báo trước cho UNESCO 1 thời gian, mãi sau khi các yêu cầu chính đáng cuả MỸ bị bọn cầm quyền UNESCO bác bỏ, thì mãi đến lúc ấy MỸ mới đường đường chính chính, rút ra khỏi UNESCO.

OBAMA được giải NOBEL hoà bình 2009 là để cố chấm dứt chiến tranh PALESTINE – DO THÁI, kéo dài từ 1948 cho đến nay.  Ngay chính tên Henry KISSINGER, DO THÁI khi làm Ngoại Trưởng MỸ cũng đã phải nói : Đây là 2 bên cùng phải (cùng có lý) gặp nhau (Palestine và Do Thái) HIỂU BA đang bị TRUNG CỘNG nhốt trong tù. MỸ rút ra khỏi UNESCO 72 giờ trước Do Thái !! Tổng Thống PHÁP là người Do Thái ra lệnh cho Đại Sứ PHÁP ở UNESCO bỏ phiếu chấp thuận việc gia nhập UNESCO cuả PALESTINE. Ngoài ra, PHÁP vẫn ở lại UNESCO.
Cũng từ 1988, Trung Tướng SIMON cho biết là tụi thân CS trong UNESCO, theo lời yêu cầu của chính phủ Hà Nội sẽ cho tổ chức 100 năm Sinh Nhật Hồ Chí Minh vào năm 1990. Chúng tôi họp liên miên, và nhờ rất nhiều nhân vật có Thế Lực để phản đối. Lý do : Hồ Chí Minh làm chính trị , không làm văn hoá. Và cứ nhìn hình ảnh các Boat People (dân VN chạy trốn Cộng Sản bằng ghe thuyền) thì Văn Hoá , Giáo Dục và sự hiểu biết của mọi người để ở đâu ??
1990, cũng là kỷ niệm 100 năm của De GAULLE, người được dân PHÁP hết sức kính nể, vì đã 2 lần cứu nước PHÁP, vậy mà người PHÁP có bắt UNESCO làm trò hề như vậy đâu.  Bọn VC thật là kỳ quặc và quái gở.. !!! ….
Ngay từ đầu năm 1990,Tổng Giám Đốc UNESCO phải tiếp, trung bình 1 tuần 2, 3 lần, những người có quyền thế ở PHÁP, chống đối Tuồng Cải Lương nhân vật chính “đồ tể” Hồ Chí Minh. Sự tranh đấu kiên trì chống lại những tên PHI CHÂU thiên tả, đã đem lại kết quả : UNESCO không tổ chức Lễ trăm năm HỒ.

Tuy nhiên vì đã ghi vào chương trình nghị sự rất nhiều lần, và đã hứa, nên UNESCO đành phải cho thuê 1 cái phòng nhỏ, với tư cách tư (privé, private).
Các ép buộc của UNESCO :
  • không có 1 dấu hiệu UNESCO,
  • không được treo cờ Việt Cộng, và ảnh Hồ Chí Minh,
  • tất cả các Thiệp Mời, dù đã in xong, cũng phải bỏ, và in lại Thiệp mới vì không được lấy danh nghiã UNESCO trên các En – Tête, mà phải in là do chính phủ HÀNỘI mời. 
Nói dối , nói gian , lọc lừa là nghề của chàng : Việt Cộng khoe ầm ĩ ở trong nước rằng UNESCO tổ chức lễ tưởng niệm 100 năm Hồ Chí Minh. Tôi chỉ đóng góp 1 phần nhỏ bé để ngăn cản cái màn kịch tiếu lâm và bất xứng , gian trá này của Cộng Sản ! …
Thiết nghĩ, VN Hải Ngoại nên ghi ơn những người Pháp có quyền thế, có đạo đức tinh thần (autorité morale) không ưa CS, không ưa Việt Cộng, đã đứng về phe VN Quốc Gia và đã nhiệt tình giúp đỡ chúng ta trong việc này. Tôi nghĩ rằng, lòng biết ơn là 1 giá trị tinh thần cao qúy, và là căn bản của Đạo Đức và tình người. Giá trị của lòng biết ơn vượt rất xa những lời xuyên tạc sự thật và những câu nói có vẻ “móc họng”, khiếm nhã, không thể chấp nhận được.

Nay xin trở sang vấn đề – Việt Nam Cộng Hòa:
1- không bao giờ công nhận Việt Nam Cộng Hòa
Tất cả các đồng minh cuả Mỹ đều có tòa Đại Sứ ở Sàigòn, trừ 1 đồng minh thân cận nhất và mang ơn nước Mỹ nhiều nhất là Do Thái thì lại không có Đại Sứ (Do Thái thiết lập bang giao cấp Đại Sứ với Việt Cộng sau 1975). Tôi còn nhớ, vào những năm 1958, 1959 ở trường CVA có 1 giáo sư Anh ngữ rất giỏi là Linh Mục Long (?) GS sống ở Mỹ nhiều năm, biết rõ Mỹ và vấn đề geo – politics ( Địa Lý Chính Trị ) của Mỹ, thời ấy.
Đại khái, GS dạy chúng tôi là New York City khác với New York State, có con sông Hudson với những khu Manhattan, Bronx, Brooklyn, Queens….
Một buổi sáng, sau khi đã dạy xong giờ Anh ngữ, các bạn cùng lớp với tôi đã ra ngoài đến quá nửa, GS nói với độ 10 người còn ở lại và đứng gần GS: “Các anh nên biết là Do Thái mới là quan trọng nhất đối với các chính khách Mỹ chứ không phải là Việt Nam Cộng Hòa bởi vì các nhà tư bản Do Thái (ở Mỹ) đóng vai trò chủ chốt , mạnh mẽ trong nền tài chánh và kinh tế Mỹ quốc.”
Tôi ghi nhớ điều này, vì hay có tính xấu: tò mò, và muốn kiểm chứng.

2- , Tướng độc nhỡni, sang thăm chiến trường VN, không thèm xin phép chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà xin thẳng với chính phủ Mỹ. Ông ta đi thăm vài chiến trường với 1 vài tướng của Mỹ. Mục đích duy nhất của việc viếng thăm này, là để ông ta chứng tỏ đã quan sát kỹ lưỡng, với những điều mắt thấy tai nghe trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa và những thẩm định của 1 danh tướng Do Thái, không phải là cuả 1 người ngồi trong Tháp Ngà, mà là của 1 người đã đến tận nơi quan sát.  Mấy tháng sau, ông ấy viết 1 bài nhận xét, mà trên nguyên tắc chỉ cố để phổ biến ở Do Thái, nhưng vì lẽ Do Thái nắm trọn tất cả các Médias (ngành nghề và phương tiện truyền thông) trên thế giới cho nên nó có tiếng vang mạnh mẽ trong dư luận, và nhất là trong các chính quyền Mỹ và Đồng Minh.
Tôi xin được phép không nhắc đến những chi tiết mà chỉ nhắc lại câu kết luận hung ác (và đểu cáng đối với Việt Nam Cộng Hòa) của ông rằng :  ”MỸ không thể thắng được, vậy cách hay nhất là rút quân đội Mỹ khỏi South of VN” , Nam Việt Nam …
Xin lưu ý quý vị, bản báo cáo của Moshe DAYAN (1966), gây 1 cú shock cho những nhà lãnh đạo quân sự Mỹ và Đồng Minh, xuất hiện chỉ có 1 năm, sau ngày Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh VN. Thật là khốn nạn, đê tiện và bẩn thỉu đối với Việt Nam Cộng Hòa. Mặc dầu vậy, Do Thái bất chấp, các Médias (truyền thông) của Do Thái bất chấp. Đối với Do Thái, Việt Nam Cộng Hòa phải chết để cho Do Thái sống (với nguyên tắc : Mỹ không thể lưỡng đầu thọ địch)…  Rất may , bây giờ Henry Kissinger đã quá già , tình thế và cảnh huống đang thay đổi . Hoa Kỳ đang cố gắng tách rời và tránh xa khỏi các chiến sự Trung Đông và đang chuyển trục sang Á Châu ….

3- Tổng Thống Lyndon Baines JOHNSON (1908-1973) là vị Tổng Thống mà tôi rất quý mến bởi vì ông là người đã ra lệnh :
  • cho bỏ bom miền Bắc,
  • cho Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 8 – 1965,
  • gửi thường xuyên 3.000 máy bay trực thăng đến VN. Mỗi khi có những máy bay trực thăng bị phá hủy thì cho thay ngay lập tức, để cho con số máy bay trực thăng vẫn ở mức 3.000,
  • gửi tới 500.000 quân Mỹ sang tham chiến tại VN, và lập rất nhiều căn cứ quân sự, nhiều phi trường ở VN.
  • lập 3 căn cứ quân sự Mỹ ở Thái Lan để chi viện thêm cho chiến trường VN.
  • huy động được các nước Đồng Minh gửi tổng cộng 100 000 quân sang VHCH : Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan…
  • ra lệnh cho các pháo đài bay B52 từ đảo Guam hàng ngày đi bỏ bom các mật khu Việt Cộng và đường mòn Hồ Chí Minh : mối đe dọa khủng khiếp đối với Việt Cộng. Việt Cộng bị thiệt hại về quân số cũng như về võ khí rất nhiều trong những cuộc ném bom của pháo đài bay B52,
  • ra lệnh cho 4 hàng không mẫu hạm Mỹ đậu thường xuyên ở ngoài khơi Việt Nam Cộng Hòa. Trong trường hợp có 1 chiếc rời đi nơi khác, thì lập tức 1 chiếc hàng không mẫu hạm khác đến thay thế, để vẫn ở mức 4 hàng không mẫu hạm,
  • ra lệnh cho quân đội Mỹ mở các cuộc tấn công Việt Cộng trong chiến thuật truy lùng và tiêu diệt Việt Cộng (Searchs and Destroys)…  Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Tổng Thống Lyndon B. Johnson là người của Bang Texas, Mỹ quốc …

Médias ( truyền thông ) Mỹ, nhưng Do Thái nắm trọn quyền, thường xuyên đả kích Tổng Thống JOHNSON và đã gọi JOHNSON là vị Tổng Thống đắt tiền nhất của Mỹ, vì đã giúp đỡ quá nhiều cho chiến tranh VN (thay vì để giúp Do Thái!). Hơn 1 lần, Tổng Thống JOHNSON đã nói với báo chí : nhiều đêm tôi không ngủ được vì nghĩ tới chiến trường VN.
Médias Do Thái và Médias Mỹ tấn công Tổng Thống liên tục, khiến ông phải từ bỏ ý định ra tái tranh cử để dành hết tâm lực cho Việt Nam Cộng Hòa mà ông coi là vấn đề chính. Tổng Thống rất trong sạch, không hề có tiếng tăm xấu trong suốt thời gian tại chức. Ngoài ra, Tổng Thống rất ngay thẳng và không ưu đãi người thân của mình : 2 con rể của ông đều bị gửi sang chiến trường VN. Hai người con gái của ông ta khóc lóc nức nở và nói về 2 người con rể của ông ta với cách dùng động từ trong thời quá khứ. Ông rất đau lòng vì khi 2 người con gái dùng những động từ trong thời quá khứ, thì có nghiã là các cô ấy coi như chồng của họ đã chết rồi. Ông nói tôi rất xúc động, tôi thông cảm với 2 con gái tôi, nhưng việc công là việc công. Thực là 1 Tổng Thống Mỹ có lòng nhất với Việt Nam Cộng Hòa (nhưng người Việt Nam Cộng Hòa lại thích NIXON, vì ông ấy chống Cộng !! ) …
Ông gặp nhiều điều không may : sự tấn công cuả các Médias truyền thông của MỸ (tức là do bởi Do Thái), rất nhiều cuộc biểu tình phản chiến ở các nước ÂU MỸ (Do Thái giật dây), Biến Động Miền Trung do Đồng Chí THÍCH TRÍ QUANG(chắc quý vị còn nhớ bức hình Đồng Chí Tổng Thống Thích Trí Quang người mảnh khảnh,ngồi trên xích lô, nét mặt cưng cưng đăng trên trang bià tuần báo TIMES, hay NEWSWEEK ? với tựa đề : người đã làm rung chuyển nước MỸ), với dự định tách rời vùng 1 cuả Tướng NGUYỄN CHÁNH THI, sau đó là những vụ Thuyết Pháp liên tục của Phật Giáo Ấn Quang, sực mùi chống MỸ. (Viết đến đây, tôi không khỏi đau lòng, khi nghĩ tới sự thành công của Thiếu Tướng NGUYỄN CAO KỲ trong vụ đập tan các Biến Động Miền Trung, sau những thất bại của 2, 3 Tướng trước đó.  Trong các cuộcTổng Công Kích têt Mậu Thân (1968) của Cộng Sản thì  tướng KỲ đích thân chỉ huy các vụ phản công đánh bạt Việt Cộng , vì Tổng Tư Lệnh NGUYỄN VĂN THIỆU đi ăn tết ở MỸ THO. ” Ông cao – bồi  NGUYỄN CAO Kỳ “, với tính bộc trực, đã nhiều lần phản đối MỸ khi họ đi quá đà, coi thường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa)…
Như đã viết ở trên : lòng biết ơn là 1 giá trị tinh thần cao qúy, và là căn bản cuả ĐẠO ĐỨC và TÌNH NGƯỜI. Tôi không muốn, và không dám thuyết phục ai về việc này. Riêng cá nhân tôi, tôi hết sức cảm tạ và ghi ơn công của Tổng Thống JOHNSON đã hết lòng chung thủy đối với Việt Nam Cộng Hòa.

4- Do Thái đã tổ chức rất lâu việc MỸ phải bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa
Tuyên truyền cho dân chúng VN mạnh nhất thời ấy là Đài Phát Thanh. Đối với các sự viện trợ của MỸ, với những phương tiện kỹ thuật và truyền thông tối tân, nhưng Đài Phát Thanh SAIGON lại chỉ nghe được ở SAIGON mà thôi (Lệnh của Bố Mẹ Do Thái).
Khi đơn vị tôi ở HUẾ, tôi không có cách nào nghe được đài SAIGON, vì nó kêu rè rè … Trái lại ,  đài HÀNỘI và đài GIẢI PHÓNG của Cộng Sản thì nghe rõ mồn một.  Vì thế, đầu năm 1969, tôi được nghe thư chúc Tết của Hồ Chí Minh, với những câu như : Đánh cho MỸ cút, đánh cho NGỤY nhào….
Khi Việt Cộng có AK54, và B40, rất tối tân, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn  xài súng ống thời 1945.  Chúng ta rất xa với những phi đạn , phi tiển , missiles USA  , súng phóng đạn pháo M72 mà MỸ cung cấp cho Do Thái năm 1973  dùng để tiêu diệt những xe tăng lớn của LIÊN XÔ và tiêu diệt tất cả những hỏa tiễn SAM của LIÊN XÔ (bán cho Ai Cập).
Trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 02 – 1968, dưới quyền chỉ huy tài ba của Tổng Tư Lệnh NGUYỄN VĂN THIỆU, 80% quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi phép, kể cả NGUYỄN VĂN THIỆU. Cuộc Tổng Công Kích rất to lớn, xẩy ra ở trên 50 tỉnh và thành phố Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là ở SAIGON và HUẾ (HUẾ bị chiếm trong gần 1 tháng với số nạn nhân 8.000 người và rất nhiều mồ chôn tập thể). Trong khi quân đội VN, theo sự cam kết nghiêm trọng của Việt Cộng và Bắc Việt là ngưng chiến trong 4 ngày Tết, nên có đến 80 % quân đội đi phép, thì không 1 người lính Mỹ nào đi phép.
Nói khác đi, quân đội Mỹ có đầy đủ trong tất cả các căn cứ quân sự Mỹ. Lệnh trên ban xuống : Mỹ không được làm gì cả trong 36 giờ, mặc sức cho lính Việt Cộng tấn công, chiếm đóng như vào chỗ không người. Tại sao là đồng minh với nhau mà lại có cái lệnh kỳ cục, quái đản, ác đức như vậy?
Thiết nghĩ đó là lệnh của Bố Mẹ Do Thái mà quyền hành, trong nhiều trường hợp, đã hơn 1 lần chứng tỏ, còn cao hơn cả quyền hành của Tổng Thống Mỹ. C’était le début de la fin (Đó là thời điểm bắt đầu của sự kết liễu của Việt Nam Cộng Hòa).
Viết đến đây, tôi rớt nước mắt, thương cảm những người chiến binh của Việt Nam Cộng Hòa, những thường dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị chết hoặc bị thương nặng do những mánh lới bất nhân, giết người, có tính toán của tập đoàn 15 triệu người Do Thái trên khắp thế giới, áp đặt lên trung tâm quyền lực quân sự Mỹ.
Xin nhắc lại, vũ khí của quân lực Việt Nam Cộng Hòa rất lỗi thời. Phải đợi cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 02 – 1968, và còn phải chờ thêm 3 tháng nữa, những khẩu M16 mới bắt đầu được trao rất từ từ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nếu quân đội Mỹ can thiệp ngay từ phút đầu tiên thì Việt Cộng làm sao dám “múa gậy vườn hoang” như thế. Không những thế, mệnh lệnh tối cao của quân đội Mỹ ban xuống cho tướng WESTMORELAND là cấm tấn công, mà chỉ được phản ứng tự vệ mà thôi.
Lệnh gì mà kỳ cục thế, nếu không phải là của Bố Mẹ Do Thái ? Bởi lẽ quân đội Mỹ rất tài giỏi, có nhiều vũ khí tối tân và nhiều tướng lãnh tài ba. Mỹ luôn luôn thắng trận. Cái lệnh quái đản ban xuống cho tướng WESTMORELAND như thế, nếu không là áp lực của Lobby Do Thái thì do ai ?
Do Thái nắm hết các Médias truyền thông Âu Mỹ, tổ chức các cuộc xuống đường chống chiến tranh VN… Nhờ vào các cơ quan truyền thông mà Tập đoàn Do Thái làm chủ cổ võ, và xúi dục. Do Thái chịu mọi phí tổn cho rất nhiều cuộc xuống đường ở các nước Âu Mỹ chống lại chiến tranh VN.
Do Thái Henry KISSINGER khuyên NIXON bỏ Việt Nam Cộng Hòa để đi với Trung Cộng. Chính hắn chủ trương cho cuộc gặp gỡ NIXON – MAO TRẠCH ĐÔNG. NIXON đã từng nói với MAO TRẠCH ĐÔNG và CHU ÂN LAI (1972): nếu chúng tôi là bạn của 1 nước CS lớn ở Á CHÂU thì tại sao tôi lại không chấp nhận cho 1 nước CS nhỏ ở Á CHÂU (Việt Cộng). Tuy nhiên, nước chúng tôi là nước dân chủ nên không thể thay đổi ngay tức khắc, hãy để cho chúng tôi chuẩn bị trong 3 năm. Quả nhiên, 3 năm sau, 1975, Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại. Do Thái rất mạnh ở trong Quốc Hội Mỹ, phản chiến và bỏ rơi VN cũng ở Quốc Hội Mỹ.
Trong hành pháp thì Do Thái KISSINGER (mà Tổng Thống CARTER gọi là Tổng Thống Mỹ về ngoại giao, tức là có ý coi xem , nói rằng Tổng Thống Gérald FORD để mặc KISSINGER toàn quyền quyết định những việc ở bên ngoài nước Mỹ, mà quan trọng nhất là VN).  Để giữ đúng lời hứa với MAO TRẠCH ĐÔNG cho Việt Nam Cộng Hòa chết vào khoảng 1975, quốc Hội Mỹ do Do Thái nắm quyền, cùng với Hành Pháp Mỹ do tên Do Thái KISSINGER lèo lái lươn lẹo , thủ đoạn nham hiểm , độc ác , thế là Tổng Thống Gérald FORD chuẩn bị bức tử Việt Nam Cộng Hòa….
Ngay từ đầu năm 1974, viện trợ Mỹ về kinh tế cho VNCH bị cắt giảm 1 nửa, viện trợ về quân sự giảm 1 nửa… Đến năm 1975 lại còn cắt giảm nhiều hơn nữa. Tỉnh lỵ PHƯỚC LONG bị Việt Cộng chiếm trọn cuối năm 1974.  Tên Do Thái KISSINGER khuyên Tổng Thống FORD cứ mặc kệ cho Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 10-03-1975 mất BAN MÊ THUẬT, tinh thần quân lực Việt Nam Cộng Hòa xuống thấp. Trong lúc nguy khốn, Việt Nam Cộng Hòa xin Mỹ viện trợ gấp 700 triệu USD (món tiền này chỉ là 1 khoản rất nhỏ so với số viện trợ của Mỹ cho Do Thái).
Do Thái bầy mưu để cướp không 700 triệu USD vũ khí, ưu tiên để viện trợ cho VNCH .
Đầu tiên, quốc hội Mỹ chấp thuận 700 triệu USD về viện trợ vũ khí.
Giai đoạn 2, quốc hội Mỹ bloquer (block) ngăn chặn món tiền này với lý do hết sức khốn nạn là : ” cho Việt Nam Cộng Hòa bao nhiêu cũng không đủ, vậy giữ lại để tiết kiệm “. Xin nhắc lại, Quốc Hội MỸ chịu ảnh hưởng cuả Do Thái rất nhiều.
Khốn nạn thay quyết định của tập đoàn Do Thái trước 1 đồng minh gặp cơn nguy khốn hiểm nghèo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hết sức lo sợ vì tinh thần quân đội xuống thấp, Việt Cộng đã tới tận PHAN RANG, PHAN THIẾT.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, lạy van Mỹ đến mức, nếu Mỹ không cho 700 triệu USD đã tháo khoán thì chỉ xin các ông 1 lời nói trước báo chí để gây lại tinh thần cho quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa :
” 700 triệu USD về võ khí cho Việt Nam Cộng Hòa sẽ được chấp thuận, nhưng còn phải nghiên cứu thêm vài chi tiết “. Tức là chúng ta chỉ xin Mỹ 1 lời hứa cuội. Quốc Hội MỸ (dưới ảnh hưởng cuả Do Thái) họp báo nói “không có 1 cent ( xu ) cho Việt Nam Cộng Hòa”. Đau đớn thay !
Cái bẩn thỉu , độc ác của Do Thái đối với Việt Nam Cộng Hòa ở chỗ là : đối với các nước dân chủ pháp trị, một khi 700 triệu USD võ khí đã được quốc hội tháo khoán thì chính phủ bắt buộc phải chi dùng , nhưng Quốc Hội Mỹ lại cố ý không cho gửi các võ khí đó sang VN, như đã nói ở trên.

Việt Nam Cộng Hòa mất ngày 30-04-1975 
Ba tháng sau, Lobby Do Thái biết rõ nguyên tắc ấy và quốc hội Mỹ cho Tổng Thống FORD sử dụng 700 triệu USD võ khí, không phải để gửi sang VN, vì Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, mà là để gửi sang cho Do Thái !!Khi ấy, tôi đã sang tới Pháp, và khi đọc những tin này trên báo chí, tôi giận điên người. Lính Mỹ, gỡ các nhãn hiệu gửi sang Việt Nam Cộng Hòa trên các thùng võ khí, sau đó dán lại nhãn hiệu gửi sang. Do Thái không có chiến tranh, và cũng không ở thế cực kỳ nguy hiểm như Việt Nam Cộng Hòa. Có cần nói thêm là cô đào cởi truồng DO THÁI Jane FONDA, là 1 trong nhũng lãnh tụ phản chiến VN rất dữ dội, đã sang tận HÀNỘI để gặp Hồ Chí Minh và tuyên bố hoàn toàn ủng hộ Việt Cộng. Tên côn đồ thường hay nói: Tại sao chúng nó (dân, quân Việt Nam Cộng Hòa) không chết phứt hết đi cho rồi.
Khi tình hình Việt Nam Cộng Hòa nguy ngập, lúc ấy là 2 giờ sáng ở WASHINGTON, và Tổng Thống FORD còn đang ngủ. Kissinger cho đánh thức Tổng Thống Gerald FORD, còn đang ngái ngủ. Kissinger khuyên Tổng Thống FORD bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa. Kissinger nói gì mà Tổng Thống FORD chẳng nghe, vì Tổng Thống FORD là 1 con người rất tầm thường. Và MỸ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa như cái giẻ rách.
Độc hại hơn, Kissinger khuyên Tổng Thống FORD bỏ hẳn dự định làm hàng rào an toàn do bởi lính Marines thủy quân lục chiến MỸ cùng với  các phương tiện thừa thãi cuả MỸ và cùng với các quân lính còn lại của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa … Con đường hàng rào an toàn ấy sẽ nối liền SAIGON và Vũng Tàu để cho các gia đình Việt Nam Cộng Hòa đi thoát (tương tự như 1954-1955 , PHÁP giữ 2 thành phố Hànội và Hải Phòng trong 1 năm cho dân chúng Bắc Kỳ Di Cư  di chuyển vào Nam VN), đi tìm tự do ….
PHÁP, mặc dầu thua to ở ĐIỆN BIÊN PHỦ, và số thương vong cao hơn MỸ, lại eo hẹp rất nhiều về phương tiện, đã cư xử với ĐỒNG MINH VNQG 1 cách rất trung hậu, có tư cách, có phong độ, và có tình. MỸ giầu hơn, mạnh hơn PHÁP rất nhiều, lại dư phương tiện, nhưng tên đồ tể Henry KISSINGER vâng lời TẬP ĐOÀN 15 triệu người DoThái, khuyên Tổng Thống FORD vứt bỏ ngay Việt Nam Cộng Hòa, không thương tiếc !!!!
 Côn đồ Do Thái KISSINGER khuyên Tổng Thống FORD tài tình đến nỗi, mấy ngày trước khi SAIGON bị mất, bị thất thủ Tổng Thống FORD – trả lời 1 cuộc phỏng vấn cuả mấy ký giả trên đường đi đánh Tennis về thái độ và quyết định cuả Tổng Thống trước tình hình Việt Nam Cộng Hòa đang sụp đổ – thì FORD trả lời dứt khoát, không cần suy nghĩ : “Xin các ông tránh ra, để cho tôi đi đánh Tennis cho kịp giờ ” !!!  Thật là khốn nạn thay !!!
Trong khi đó, bên kia bờ Thái Bình Dương, hàng trăm ngàn gia đình, hàng triệu người Việt Nam Cộng Hòa đang than khóc, đang lo lắng , âu sầu …đã thành công rực rỡ, vẻ vang (trên hàng triệu người bị chết) vì tài ba, nhưng không có đức độ của họ. Nạn nhân là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, QUÂN LỰC MỸ, các Phi Công MỸ, và QUÂN LỰC của các nước Đồng Minh… Tuy nhiên, đối với bọn họ thì đấy chỉ là những con số, không lấy gì làm quan trọng, làm mủi lòng tiếc thương của họ . Họ dửng dưng không cần biết , không thèm để ý , không thèm quan tâm … Họ đã trở thành thú vật vô lương tri !!!
Vấn đề chính yếu:
  1. Tập đoàn Do Thái mạnh, ISRAEL bình an, MỸ phải viện trợ cho Do Thái (hàng chục tỷ Đôla  Billions USD mỗi năm, trực tiếp và gián tiếp, với tiền đóng thuế cuả dân chúng MỸ)…
  2. Quốc Hội MỸ theo Do Thái, và các chính khách MỸ, CỘNG HOÀ hay DÂN CHỦ đều đặt quyền lợi Tối Cao của Do Thái trước quyền lợi tối cao của MỸ, ngay cả trong trường hợp đi ngược lại quyền lợi cuả MỸ. (Tôi được đọc nhiều tài liệu liên quan đến thái độ Phản Quốc, phục vụ ngoại bang cuả các chính khách MỸ. Xin Quý Vị ở MỸ kiểm chứng, có lẽ sẽ dễ dàng hơn) … Họ chạy theo và phục tùng các tư bản Do Thái vì các tên tư bản nầy đã bỏ tiền của ra ủng hộ , giúp đỡ và nuôi dưỡng họ … Tất cả chỉ vì tiền của và vật chất của các tài phiệt Do Thái. Họ chỉ biết Tiền mà thôi .
Còn nhiều chi tiết nữa, nhưng thư đã quá dài, viết thêm chỉ thêm đau lòng cho dân chúng và các  quân nhân hào hùng của Việt Nam Cộng Hòa… 
*** Hiện nay có một số tác giả Việt Nam đã viết rằng chính tên đồ tể Henry Kissinger và Tập Đoàn Tài phiệt Do Thái đã chủ mưu cố tình sát hại, giết chết các anh em  gia đình Tổng Thống Kennedy của Mỹ để bịt miệng và tiêu diệt nhân chứng đã biết rõ về các âm mưu gian ác của bọn họ, và dĩ nhiên cũng do chính bọn ác ôn côn đồ nầy đã chủ mưu đảo chính giết chết gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm của VNCH và cũng chính bọn sát nhân nầy đã chủ mưu mọi điều để giết chết nền Đệ Nhị Cộng Hòa và quân dân cán chánh của Miền Nam Tự Do và để cho Cộng Sản Bắc Việt nhào vào đánh cướp chiếm lấy , cai trị , thống trị toàn thể Việt Nam dưới sự cai quản và chỉ huy toàn diện về mọi điều, mọi sự của đế quốc Cộng Sản Trung quốc !!!..
 BS Đặng Vũ Ái, Paris

Tuesday, April 28, 2020

Câu chuyện về gia đình Đại tá Hồ Ngọc Cẩn Giao Chỉ

Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức. Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. 

Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện.
Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. 
Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. 
Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá.
Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. 
Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cả cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.

Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng.
Đ/tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận.
Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9.
Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ.
Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. 
Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc.

Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. 
Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.

Giây phút cuối của Chương Thiện,
Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói: “Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. 
Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi.
Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua.
Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi.
Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì được. 
Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì ít nói như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết.

Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. 
 
 Gia Đình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các cựu SVSQ Đồng Đế Nha Trang 
 
Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “
- “Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.
- “Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Paulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”

Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác: 
- “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”
Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ:
- “Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.
Tôi hỏi tiếp:
- “Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.
- “Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. 

Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.
Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi: 
- “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.
- ” Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.
- “Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.
Bà Cẩn thật thà kể rằng:
- “Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”

Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính.
Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.
Giao Chỉ San Jose