Wednesday, January 30, 2019

Một Chuyến Ra Bắc Thăm Ba - Hùng Biên


Trong những kỷ niệm của đời người, kỷ niệm của tuổi thơ với gia đình, người thân và bạn bè là những kỷ niệm đẹp và mãi theo chúng ta trong suốt cuộc đời. Hạnh phúc thay cho những ai có được những kỷ niệm gia đình thật trọn vẹn bên cạnh sự yêu thương của cả cha lẫn mẹ trong suốt quãng đời thơ ấu. Thế hệ chúng tôi, thế hệ con em của những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), đa số đã thiếu hẳn những hạnh phúc gia đình trọn vẹn này khi có cha bị lưu đày trong các ngục tù Cộng Sản (CS). Thay vào đó, chúng tôi có thật nhiều những kỷ niệm khó quên trong những chuỗi ngày dài tự học hỏi, tự vươn lên, và tồn tại trong xã hội Cộng Sản, mà chúng tôi bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Một trong những kỷ niệm của tuổi thơ, đã mãi theo tôi tới hôm nay là cuộc hành trình gian truân cùng với mẹ đi thăm ba, bị giam tù ở Miền Bắc Việt Nam (MBVN).
Giờ đây, tôi vẫn còn nhớ nhiều kỷ niệm, hình ảnh, và ý nghĩ của tôi qua chuyến ra Bắc thăm ba.
Qua bài viết này, tôi muốn đem lại cho quý độc giả, nhất là các bạn trẻ và những thế hệ nối tiếp, những sự thật về chế độ CS qua những gì tôi đã nhìn thấy ở tuổi thơ qua chuyến thăm ba này.
Tôi chào đời khi đất nước của tôi chìm trong lửa khói chiến tranh và khi Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) theo chủ thuyết Cộng Sản Nga và Tàu xua quân đánh chiếm Miền Nam Việt Nam (MNVN). Thế nhưng, tôi quá nhỏ để nhận biết ra một cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra trên quê hương mình. Tôi chỉ hồn nhiên vui cười quấn quýt bên ba khi thấy ông oai phong trong quân phục áo hoa rừng. Tôi nhớ có những lần theo mẹ lên các trại lính thăm ba, mẹ và tôi được di chuyển trên trực thăng chinook và tôi đã khóc vì bị đau nhức tai do áp suất không khí trên cao bị thay đổi. Tôi nhớ hình ảnh của các người lính súng trong tay di chuyển trong doanh trại và tôi có dịp ngắm nhìn những chiếc chinook câu xe và pháo bay về một hướng. Tôi thích nhất là những lần được đưa đón đi học bằng xe jeep khi ba tôi về phép. Hình ảnh tuổi thơ của tôi có ba bên cạnh là như thế đó, không nhiều, nhưng rất đẹp và mãi theo tôi đến hôm nay.
Đến một ngày, tiếng súng nổ rền vang vọng về thành phố Sài Gòn và mẹ tôi đã lùa anh em tôi xuống trốn ở bộ ván trong nhà. Không lâu sau ngày ấy, tôi đã không còn những kỷ niệm tuổi thơ nào với ba và mãi không nhìn thấy ba bên cạnh. Năm tháng dần trôi, tôi sớm nhận ra rằng ngày ấy là ngày 30-4-1975, là ngày đen tối của dân tộc Việt Nam (VN), khi CSBV đã cưỡng chiếm Miền Nam (MN). Từ ngày ấy, đất nước tôi bị cai trị bởi chế độ CS vô thần, dân tộc tôi bị đàn áp đọa đày và gia đình tôi đã bị ly tán và phân biệt đối xử.
Là anh cả trong gia đình có 5 anh em, ba bị tù CS khi tôi mới vừa 5 tuổi, tôi đã sớm nhận ra những mất mát thiệt thòi trong tuổi thơ của anh em tôi và trong tuổi thanh xuân của mẹ tôi. Khác hẳn với những đứa trẻ cùng xóm, anh em tôi sớm biết tự lo cho mình từng miếng ăn, cái mặc, đến việc học hành khi mẹ tôi thường xuyên vắng nhà, để tần tảo buôn bán lo kế sinh nhai. Khác hẳn với những đứa trẻ cùng trang lứa, tôi đã sớm giúp mẹ từ việc nhà đến buôn bán, trông nom và bảo vệ các em tôi.
Đối với tôi, hình ảnh của mẹ giống như con cò lặn lội đồng gần, đồng xa kiếm mồi về nuôi đàn con nhỏ. Có những chiều, anh em tôi ra đứng ở thềm nhà trông chờ mẹ đi bán về. Còn vui nào hơn khi nhìn thấy mẹ, vì mẹ là tình thương và là chỗ dựa duy nhất của anh em tôi khi ấy. Nhớ những ngày tựu trường, mẹ tôi phải lo tiền mua sắm quần áo và tập vở cho 5 anh em tôi. Một mình mẹ chạy tới chạy lui để kịp buổi họp phụ huynh cho chúng tôi. Tôi thương mẹ nhiều hơn và cảm thấy sự thiếu vắng của ba tôi với gia đình.
Có những lần rong chơi cùng lũ trẻ trong xóm, tôi thường được cô bác láng giềng hỏi thăm về ba tôi, như: “Mẹ con có tin tức gì về ba không?”, “Ba con bị giam tù ở đâu?”, “Khi nào ba con về?”… vv và vv. Những câu hỏi ấy luôn gợi cho tôi lòng thương nhớ ba mình và mong ngày được gặp lại. Tôi đã tìm hiểu nguyên do tại sao ba tôi bị giam cầm và tôi sớm nhận ra rằng ba tôi, cũng như các bác tôi, các anh họ tôi, và cậu tôi là những người lính VNCH, đã cầm súng chiến đấu bảo vệ nền tự do và dân chủ cho MNVN, chống lại sự xâm lăng của CSBV. Thương nhớ ba, tôi thường hỏi mẹ, “Khi nào ba về?” hay “Khi nào mình gặp lại ba?”. Hỏi như thế, chứ tôi biết mẹ tôi còn nôn nóng ngày gặp lại ba nhiều hơn anh em tôi. Mẹ luôn trông ngóng những tin tức về ba. Khi được phép viết thư thăm chồng, mẹ luôn cho tôi viết vài hàng thăm ba. Những lá thư đầu tiên trong đời, tôi đã viết thăm ba trong ngục tù CS.
Mùa hè năm 1979, mẹ nhận tin là được phép ra thăm ba tôi, đang bị giam tù tại trại K3, Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Mẹ sẽ dẫn tôi đi cùng. Tôi quá đỗi vui mừng và đã chạy đi khoe với các bạn cùng sớm và cô bác láng giềng. Mẹ tôi phải làm nhiều hơn và phải bán đi chiếc xe Honda Dam, là phương tiện di chuyển duy nhất của mẹ, hầu có đủ tiền mua vé xe lửa, mua thực phẩm, thuốc men, và quần áo làm quà cho ba. Mẹ báo tin đến bà con xa gần về chuyến đi thăm này. Mẹ và tôi nhận được những tình cảm thân thiết qua nhiều lời nhắn gởi thăm hỏi đến ba tôi từ bà con xa gần và ngay cả các cô chú bác láng giềng.
Sau những ngày chuẩn bị, ngày đi thăm ba tôi đã đến. Chiều hôm đó, sau khi gia đình tôi dùng cơm chiều sớm hơn mọi ngày, mẹ tôi căn dặn các em ở nhà thật ngoan và nghe lời dạy bảo của ông bà ngoại và các dì. Khi tiễn mẹ và tôi ra đến hiên nhà, bà ngoại nói với tôi:
- Con nhớ nói với ba là ngoại thương nhớ ba con nhiều lắm.

Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên đôi má gầy gò của ngoại. Tôi thương ngoại và hiểu rõ tình cảm của ngoại dành rất nhiều cho ba tôi, cho người con, người lính VNCH. Ngoại tôi đã mất một người con, cũng là người lính VNCH, vào những ngày cuối của cuộc chiến VN. Bà tôi đã khóc thật nhiều và có những lúc bà vẫn tin rằng cậu tôi đang lẩn tránh trong rừng cầm súng chống lại chế độ CS đương quyền. Tôi may mắn hơn các anh em bà con, đã sống gần bên ngoại. Bà đã kể cho tôi nhiều về những gian nan của gia đình hay những dã man của Việt Minh (tiền thân của Cộng Sản), khi ông bà còn sống trong vùng Việt Minh kiểm soát mà hằng đêm dân lành bị quấy phá, cướp bóc, cắt cổ, hay đập đầu.
Khi những tia nắng chiều vừa khuất dạng bên những tàu lá dừa xanh ở căn nhà đối diện, cũng là lúc mẹ và tôi phải chia tay gia đình ra ga xe lửa Bình Triệu. Cùng đi thăm nuôi với gia đình tôi còn có dì Năm, người hàng xóm thân thiết. Dì Năm đi cùng với mẹ chồng ra thăm chú Nguyễn văn Năm, một cán bộ xây dựng nông thôn của VNCH, cũng bị giam giữ tại trại K1 Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Lần theo số toa ghi trên tấm vé, mẹ và tôi đến chỗ ngồi trên toa xe lửa. Đây là toa ngồi cho hành khách, với từng cặp băng ghế gỗ đối diện nhau, chen giữa là một cái bàn nhỏ, đặt bên cạnh cửa sổ. Mỗi băng ghế chỉ đủ cho 2 người ngồi. Giữa toa xe có treo một ngọn đèn bóng vàng với ánh sáng yếu ớt chỉ đủ cho người ta nhìn thấy mặt nhau. Ở cuối mỗi toa tàu là nhà vệ sinh mà tiêu tiện không có thùng đựng để rơi rớt tự do qua cái lỗ xuống mặt đường rây.
Xe lửa từ từ chuyển bánh. Ngồi bên cạnh cửa sổ, tôi có dịp ngắm nhìn thành phố vào đêm và tôi có dịp cảm giác những làn gió mát thổi vào mặt. Trong đầu tôi miên man với nhiều suy nghỉ, đó là sẽ được gặp lại ba tôi và sẽ được nhìn thấy những điều mới lạ trong đời. Đêm đã khuya, mẹ tôi phủ lên sàn tàu bên dưới băng ghế một lớp nylon và bảo tôi nằm ngủ trên đó. Nằm sát sàn tàu, tôi nghe văng vẳng tiếng kêu nhịp xình xịch, tiếng ma sát của bánh xe với đường rây kêu ken két, hòa lẫn tiếng còi hụ như hòa nhịp đưa tôi vào giấc ngủ từ lúc nào.
“Trà xanh đây, trà xanh đây” – Tiếng rao của nhân viên trên tàu đã làm tôi thức giấc. Những tia sáng ban mai xuyên qua cửa sổ làm cả toa tàu sáng lên. Một phụ nữ, trạc tuổi mẹ tôi, và người con cũng trạc tuổi tôi đang ngồi cách chỗ chúng tôi vài dẫy ghế. Sau khi trao đổi đôi lời, dì ấy và mẹ tôi mới biết là giống nhau, cùng dẫn con đi thăm chồng ở cùng trại K3, ở Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Vậy là có ba gia đình cùng trên một chuyến xe lửa đi thăm chồng, thăm con, và thăm cha bị lưu đày trên đất Bắc xa xôi. Cả dì ấy và mẹ tôi rất vui vì đã có người đồng hành, có thể nương vào nhau cho chuyến đi này. Tôi có hỏi thăm tên của người bạn trẻ ấy, nhưng thời gian từ ngày đó tới hôm nay đã hơn 35 năm, tôi đã quên mất tên bạn. Xin cho phép tôi gọi bạn ấy là Tuấn trong bài viết này.
Nhìn qua khung cửa sổ xe lửa, một bức ảnh quê hương tuyệt đẹp hiện ra trong mắt tôi. Những dãy núi đồi trùng điệp nối tiếp nhau, cùng những cây xanh mọc trên sườn và với những đám mây trắng lững lờ bay bay trên cao đã tạo thành một bức tranh sinh động của giang sơn Việt Nam, gấm vóc và hùng vĩ. Những hình ảnh xinh đẹp đó tiếp tục hiện ra trước mắt tôi, khi xe lửa uốn lượn theo sườn núi, chui qua hang, hay chạy sát dãy bờ biển xanh thẳm. Nhưng, có những đoạn đường, xe lửa băng qua những cánh rừng và chạy sát những khu dân cư với những căn nhà tranh vách đất thô sơ. Một số người dân đứng trước những căn nhà đó, trong quần áo rất đơn sơ, dõi mắt nhìn theo chiếc xe lửa chạy qua. Tôi đã nhìn ra được những hình ảnh nghèo nàn của các làng quê tương phản với hình ảnh thiên nhiên thật đẹp.
Nhìn vào danh sách các toa tàu in trên tờ lịch túi mà mẹ tôi mang theo, chúng tôi có thể biết trước những ga mà xe lửa sắp đến. Xe lửa vượt qua những ga nhỏ và dừng lại các ga lớn như: Nha Trang, Diêu Trì, và Đà Nẵng, thật lâu để đưa đón khách. Những lần vào ga lớn như thế, tôi có dịp nhìn thấy cảnh náo nhiệt của người đi, người đến, của người mua, người bán. Những người buôn hàng nhảy bổ lên và xuống các toa xe với các bao hàng. Những người bán hàng rong, trong tay với những bịch cơm, thúng bánh, trái cây, hay nước uống chạy dọc các cửa sổ rao bán. Và một lần, tôi đã nghe tiếng “Sim đây, sim đây”. Một thứ trái cây lạ, tôi chưa bao giờ biết. Mẹ tôi kêu người bán sim lại và mua một bịch. Thì ra, đó là trái sim tím có hình tròn, to cỡ đầu ngón tay cái, và có vị ngọt. Cậu thanh niên, ngồi ở băng ghế gỗ đối diện chúng tôi, cho biết rằng hoa của trái sim đã đi vào nhạc phẩm “Những Đồi Hoa Sim”, một bài hát mà tôi rất thích và CS đã cho là nhạc vàng cấm hát ở VN vào lúc đó. Khi xe lửa rời ga, đi ngang qua những đồi hoa tím, cậu thanh niên cho chúng biết đó là những đồi hoa sim.
Được ngắm nhìn quê hương và được mẹ cho ăn trái cây lạ hay món ăn lạ không có ở Miền Nam, tôi cảm thấy thật là thú vị. Những cái thú vị đó đã không còn nhiều khi xe lửa tiến dần ra Miền Trung.
Tôi nhớ rất rõ, sau khi rời ga Nha Trang, xe lửa đổi đầu máy chạy ngược hướng lại. Xế trưa, xe lửa chầm chậm chạy qua cầu Đà Rằng, một cầu thật dài trên một cây số. Cây cầu thì dài mà xe lửa chạy thì quá chậm làm cho tôi có cảm giác là xe lửa sẽ không bao giờ rời cây cầu này. Bất thình lình, tôi nghe nhiều tiếng kêu la từ các toa tàu phía trước, “cướp, cướp, cướp”. Đang bàng hoàng, không biết cướp ở đâu thì tôi nghe tiếng va cạch cạch cạch của thanh gỗ vào các khung cửa sổ và đi ngang qua cửa sổ chỗ tôi ngồi. Khi tiếng kêu vừa xa dần, ngó ra ngoài tôi thấy nhiều người thanh niên đứng trên những thanh chéo zích zắc của thành cầu, tay cầm thanh cây quét đồ vật trên bàn hay chòm vào giật đồ tư trang của của các hành khách. Vô số đồ vật rơi xuống bên dưới dòng sông, vốn chỉ là dòng nước cạn chảy nhẹ qua các mỏm đá. Mùa hè là mùa khô hạn ở Miền Trung, các dòng sông như sông Đà Rằng rất cạn nước, nên những người cướp cạn trên cầu sẽ rất dễ lội xuống lòng sông vớt lên những đồ quơ rớt được.
Màn đêm dần buông, xe lửa vẫn tiếp tục lăn dài trên đường rây. Sau một ngày dài ngồi trên xe, mẹ và tôi ngả lưng sớm. Bất chợt, tôi nghe mẹ tôi hét lên thật lớn “ao…ao...”. Ngồi dậy, tôi thấy mẹ tôi ôm lấy bàn chân. Thì ra, khi xe lửa vào ga ban đêm, một số người bán hàng rong đánh thức hành khách dậy mua hàng, đã cầm thanh cây dài quét qua các khung cửa sổ, đập vào chân mẹ tôi đang gác chân lên thành cửa sổ trong khi ngủ. Sau đêm đó, để ngủ yên, mẹ tôi cũng như các hành khách khác đều đóng kín cửa sổ nơi mình ngồi. Ở một số ga, cả buổi trưa lẫn tối, người bán hàng còn tạt nước vào cửa sổ để đánh thức hành khách. Để tránh bị tạt nước vào trong toa ban ngày, hành khách phải ngồi sát cửa sổ để cho các người bán hàng trông thấy.
Tôi còn có dịp ngắm thêm vẻ đẹp của rừng núi Việt Nam khi xe lửa vượt qua đèo Hải Vân. Một bên xe lửa là vách núi, còn bên kia là vực sâu thăm thẳm. Ở những khúc đường quanh co, tôi có thể nhìn thấy các toa đầu và các toa đuôi của xe lửa và nó uốn lượn như một con rắn dài đang trườn trên sườn núi. Khi xe lửa ra đến Quảng Trị, tôi thấy nhiều chiếc xe tăng bị cháy hư vẫn còn nằm dọc theo những con đường. Cậu thanh niên ngồi đối diện cho mẹ và tôi biết đây là vùng địa đầu giới tuyến với vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước VN. Khi xe lửa vượt cây cầu bắt qua sông Bến Hải, anh ta lại cho biết cây cầu này được xây lên sau 1975 để nối tuyến đường sắt Nam Bắc, mà CS còn gọi là tuyến đường sắt Thống Nhất.
Sau này lớn lên, tôi tự hỏi “Có thật sự là VN đã thống nhất không?” Khi mà vô số những cách biệt thành hình một cách rõ nét trong chế độ CSVN giữa những CS đỏ, giàu sụ chuyên đàn áp và cướp bóc dân lành, và người dân nghèo khó bị bóc lột, giữa nhiều từng lớp giai cấp thống trị qua hệ thống chiều dọc Đảng trị từ trên xuống và người dân thấp cổ bé miệng bị hà hiếp. CSBV đã lợi dụng chiêu bài thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc để khích động lòng yêu nước từ già đến trẻ, cầm súng chống Mỹ, mà dã tâm của chúng là làm tay sai và vâng lệnh các đàn anh CS Nga Tàu, gieo rắc chủ thuyết CS lên cả hai mền Nam Bắc của Việt Nam. Vì thế xâm chiếm MN là điều CS Hà Nội, thái thú cho Nga Tàu đã làm, thay cho sự giả dối nói là thống nhất VN hay giải phóng MN.
Sau ba ngày ba đêm, xe lửa vào ga Vinh vào lúc xế chiều. Ga này là điểm dừng cho những gia đình đi thăm nuôi của các trại tù ở Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Sau khi xuống xe lửa, ba gia đình chúng tôi được các thanh nhiên kéo xe mời chở hành lý và hướng dẫn về nhà trọ. Sau khi thỏa thuận giá cả, anh thanh niên bỏ các hành lý lên thùng xe, rồi ra phía trước choàng dây ngang cổ và hai tay nắm hai tay cầm dài kéo xe chạy, trong khi mẹ và tôi chạy theo sau. Tôi quá đổi ngạc nhiên vì không bao giờ nghĩ là có người kéo xe như thế trên đời này. Trong hơn một ngày lưu lại ở thành phố Vinh, tôi đã không thấy một chiếc xe mô tô, một chiếc xe xích lô, hay xe ba bánh mà tôi thường nhìn thấy ở Miền Nam.
Sau này, khi học sử nói về thời phong kiến và thời Pháp thuộc, học sinh chúng tôi được học những phương tiện thô sơ thời ấy như xe kéo, xe thồ, và xe lôi. Tôi thầm nghĩ, có ai trong đám bạn tôi có biết là tôi đã từng nhìn thấy xe kéo vẫn còn được dùng trên thiên đường CS ở đất Bắc. Hóa ra, chế độ CSVN đã tạo “thiên đường” ở đất Bắc ngày đó ngang bằng hoặc tệ hơn với các xã hội phong kiến ngày xưa qua những phương tiện vận chuyển thật thô sơ.
Người phu xe kéo hành lý đưa chúng tôi tới căn nhà trọ nằm ở góc trái trong bến xe đò Vinh, về đêm thật vắng lặng. Căn nhà trọ chỉ là một gian nhà vách cây vuông vức, kê bốn bộ ván ở bốn góc nhà. Ba gia đình chúng tôi đã thuê ba bộ ván để ngủ qua đêm.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy và không thấy mẹ tôi đâu. Hỏi qua bà cụ (mẹ của chú Nguyễn văn Năm) thì được biết là mẹ tôi và các dì đã ra ngoài mua vé xe đò đi lên Nghệ Tĩnh. Bước ra khỏi gian nhà, tôi nhìn thấy cảnh đìu hiu, khác hẳn với cảnh náo nhiệt buôn bán như những bến xe ở MN mà tôi biết, như Xa Cảng Miền Tây. Điểm chung mà tôi thấy ở bến xe này với những chỗ đông dân như bến xe và các chợ ở MN là những biểu ngữ đỏ hô hào tuyên truyền giăng khắp nơi với cái loa phát thanh thật lớn luôn ra rả ca ngợi Đảng CS vô thần suốt ngày. Gần trưa, mẹ và các dì mới mua được vé xe đò cho chuyến xe sáng mai. Thế là chúng tôi phải ở lại bến xe Vinh qua một đêm nữa.
Không tìm thấy quán ăn nào hết ở bến xe, ba gia đình cùng nhau đi bộ tới chợ Vinh gần đó. Bước vào ngôi chợ, đập vào mắt tôi là một màu xanh, mọi người trong chợ đều mặc quân phục bộ đội CS. Chỉ có chúng tôi trong những tấm vải có màu khác nhau. Thoạt đầu, tôi nghĩ ai cũng là bộ đội CS vì trong họ có người còn đội nón cối bộ đội. Nhưng sau đó, tôi biết họ chỉ mặc đồ giống nhau thôi, bởi vì họ không có quần áo nào khác. Tôi chợt nhớ lại, Sài Gòn sau năm 30-4-1975, tôi đã thấy nhiều thành phần xu nịnh và đón gió trở cờ, tìm mua quần áo, dép râu và nón cối của bộ đội CS để mặc. Dân MN chúng tôi rất ghét thành phần đón gió trở cờ này. Tôi lại tự hỏi, không lẽ tất cả người dân ở Vinh đều là thành phần xu nịnh CS. Tôi đã không có câu trả lời cho câu hỏi trong đầu khi đó.
Nói là ngôi chợ, nhưng cái chợ Vinh này đã khác hẳn với những ngôi chợ ở MN mà tôi biết. Chợ Vinh chỉ là một gian nhà rộng có bốn vách, không kiểu cách, với những người bán hàng ngồi bẹp xuống đất hay trên sàn gỗ rất thấp. Họ bán những món hàng đơn sơ hay nông phẩm của họ. Đảo quanh một vòng chợ, chúng tôi không thấy một quán ăn nào hết. Mẹ tôi mua một bịch trái hồng quân để ăn cho đở khát và đói. Qua hỏi thăm, chúng tôi được biết gần đó có một “cửa hàng ăn uống”, do CSVN làm chủ.
Dưới cái nắng nóng tàn khốc và những cơn gió khô và hắc, chúng tôi nhễ nhãi mồi hôi đi bộ tới “cửa hàng ăn uống”. Tôi nhớ con đường có nhiều cát bụi và những hạt cát cứ đua nhau chui vào đôi dép tôi mang, tạo nên cảm giác khó chịu. Vốn là đứa bé chân đất thích chạy nhảy, tôi xách dép đi chân không. Đi chân trần không lâu tôi cảm thấy như đi trên lửa và tôi phải mang dép vào.
Sau này, qua sách vở tôi biết được tôi đã đi trong cái nóng do gió khô và nóng thổi từ Lào sang. Hơi nước trong gió đã bị chắn lại bên mạn Tây của dãy Trường Sơn và chỉ còn cơn gió khô nóng tỏa lên trên mãnh đất miền Trung.
Bước vào trong “cửa hàng ăn uống”, chúng tôi không thấy ai phục vụ cho khách ngồi ăn tại bàn cả. Khách phải tự đến quầy mua thức ăn để chọn món ăn. Sau khi trả tiền, khách được đưa cho tem phiếu rồi tự tới quầy nhà bếp để nhận thức ăn. Ngoài món ăn chính, mẹ tôi đã mua thêm “chè xanh” để ăn cho mát. Mẹ và tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhân viên trong bếp dùng cái giá làm bằng lon sửa bò để múc nước chè xanh cho vào cái tô. Chúng tôi cầm thức ăn tới bàn ăn, rất dơ, dính đầy đồ ăn, và có vô số con ruồi. Cả mẹ và tôi điều ngạc nhiên, “chè xanh” chỉ toàn là nước, không có cái gì hết. Khi uống vào, thì chúng tôi mới biết đó là trà xanh. À ra, “chè xanh” của người MB lại là trà xanh của người MN!
Sau này, tôi suy ra rằng, CSVN theo học thuyết “chuyên chính vô sản” đã tạo ra “thiên đường” trên đất Bắc, khi chúng thi hành chính sách xóa bỏ giai cấp của người dân. Người dân trở thành vô sản, còn mọi tài sản đều nằm trong tay của người CS và đảng của chúng. Người dân được chúng ban phát mọi thứ, từ cái ăn cái mặc cho tới công ăn việc làm. Quần áo là những quân phục do Tàu Cộng cung cấp và lương thực thì được ban phát theo tiêu chuẩn. CSVN đã và đang thuần phục người dân MB qua sự ban phát, để trở thành những con người vô tri vô giác chỉ biết vâng thưa dạ bảo, chờ hưởng bổng lộc và tin tưởng tuyệt đối mù quáng vào đường lối lãnh đạo độc tài của Đảng CSVN. Sau ngày xâm chiếm MN, CS cũng đã đã thực hành những chính sách của chủ thuyết CS như vơ vét tài sản, cưởng bức và tập trung lao động và nắm quyền ban phát mọi thứ … vv và vv lên người dân MN. Người dân MN từ ấm no, tự do và dân chủ đã đi dần tới nghèo đói, lạc hậu, và mất hết mọi quyền làm người.
Khi ăn trưa xong, chúng tôi đi bộ về căn nhà trọ trong cái nắng gay gắt. Nơi đây không có phòng tắm, vì thế chúng tôi phải ra nhà tắm công cộng ở bến xe. Chúng tôi phải trả tiền cho từng thùng nước giếng, mà cũng chỉ đủ ướt người. Đó là lần đầu tiên tôi thấy nhà tắm công cộng trong “thiên đường” CS khi mà người dân thì quá nghèo nàn, lạc hậu, và bần cùng trong những nhu cầu căn bản sinh hoạt hằng ngày.
Khi trời còn tờ mờ sáng, chúng tôi đã lên chuyến xe đò từ Vinh đi Thanh Hóa. Dù đã mua vé xe, chúng tôi không có chỗ ngồi mà phải đứng trên xe đông nghẹt người, chen lẫn với cả hàng hóa. Xe đò chạy ngoằn ngoèo qua những con đường đầy cát bụi trong cái nắng oi bức và xe dừng lại nhiều lần để đón khách và hàng hóa dọc đường. Xế trưa, xe dừng lại và người lơ xe cho biết đây là trạm dừng cho các gia đình đi thăm nuôi tại các trại tù ở Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Cả ba gia đình chúng tôi xuống xe và tôi nhìn thấy một vách núi thật cao bên lề phải của xe. Bước qua bên kia đường, chúng tôi đi vào một con đường nhỏ. Đây là con đường đất thật dài và không có một bóng râm. Mẹ tôi và các dì với các hành lý nặng trĩu đôi tay, dẫn mẹ chồng và các con lê bước mãi trên con đường trong ánh nắng hực nóng của mùa hè. Chúng tôi phải dừng lại nhiều lần để mẹ và các dì nghỉ tay. Đi mãi trên con đường, cuối cùng chúng tôi tới một ngã tư với bản chỉ dẫn trên tấm gỗ, đi thẳng tới trại K1 và quẹo phải đi tới trại K3. Dì năm và bà cụ tiếp tục đi thẳng đến K1, còn gia đình tôi và gia đình Tuấn thì rẽ phải.
Trên con đường này có những hàng cây khuynh diệp trồng dài trên bờ đê cao. Tôi đã chạy trên bờ đê này, bứt vài lá khuynh diệp vò lại và ngửi chúng. Đứng trên cao với tầm nhìn rộng, tôi thấy những cánh đồng trống không khô cạn, không một cây xanh. Những vùng đất trũng không có nước. Tôi cũng không nhìn thấy một ngôi nhà dân nào hết. Thật là vùng đất khô cằn không có sự sống, khác hẳn với miền quê MN với những ruộng lúa, ao mương có cá, cua và ốc, và có những cây xanh như bình bát và dừa mọc dại ven đê mà tôi có thể bắt hoặc hái khi về thăm quê nội hay ngoại. Khi đi hết hàng cây khuynh diệp, chúng tôi tới căn nhà nằm bên lề phải của con đường và chơi vơi giữa vùng đất hoang vắng, xa xa là những dãy núi cao bao quanh. Căn nhà có ba gian, gian giữa dùng làm phòng thăm nuôi, hai gian còn lại dành cho các gia đình thăm nuôi ngủ lại. Mỗi gian chỉ rộng đủ để kê hai cái giường và không có một vật gì trong đó. Hai gia đình chúng tôi đã vào chung một gian nhà, vì gian nhà kia đã có một gia đình tới ở trước đó.
Ngay chiều hôm đó, qua trò chuyện, mẹ và tôi được biết là sẽ có buổi gặp thăm nuôi của gia đình ở bên gian nhà kia. Đó là người mẹ dẫn theo hai người con trai, lớn tuổi hơn tôi. Gia đình của dì ấy được gọi qua ngồi bên gian nhà giữa. Tôi đã chạy ra đứng trên con đường trước căn nhà và nhìn thấy một hình ảnh thật cảm động. Từ xa xa, tôi thấy hai người công an cầm súng đi bên cạnh hai người tù, mà những cánh tay choàng nhau làm kiệu khiêng một người tù thật yếu. Khi đoàn người tới gần, tôi nhìn thấy bác ngồi trên kiệu thật ốm và đôi chân hình như đã quá teo nhỏ, có thể do bị biệt giam quá lâu hay do bệnh. Một không khí thật buồn, khi tôi thấy cảnh gia đình xum họp và tôi biết rằng tôi sẽ gặp ba tôi cũng tại gian nhà này ngày mai.
Xế chiều, tôi nhìn thấy từng đội người tù đi lao động về ngang qua trước gian nhà từ trái qua phải, với những ánh mắt nhìn vào bên trong gian nhà. Các đội đi thành bốn hay năm hàng dọc và có một tên công an cầm súng đi sau cùng. Tôi chạy sát tới đoàn người tù và có nhiều tiếng nói từ trong đoàn người hỏi thăm với nhiều câu hỏi như: “Con ra đây hồi nào?” và “Ba con tên gì.” Tôi đã trả lời các câu hỏi như: “Con mới ra chiều nay.” và “Ba con tên Nguyễn minh Đường.” Tôi mong mỏi tìm trong đoàn người xem có ai nhận là ba tôi không? Nhưng không thấy ai kêu tên tôi cả.
Màn đêm phủ xuống dần trên vùng đồi núi Nghệ Tĩnh với những tiếng ễnh ương và bìm bịp kêu đêm. Quang cảnh thật buồn và ảm đạm. Mẹ và tôi nằm co ro trong đêm tối với những ngọn nến thấp sáng phất phơ trong gió. Trong gian nhà không đèn và không cửa, nhìn ra ngoài tôi chỉ thấy một màn đen phủ kín.
Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm và đi bộ ngược lại con đường đất mà chúng tôi đã đi vào hôm qua vì tôi biết là các đội người tù sẽ đi về hướng này. Khi ra gần tới ngã tư, tôi đứng lại tại đó vì không biết là các đội sẽ đi hướng nào. Đứng trên bờ đê dưới hàng cây khuynh diệp, tôi thấy từng đội đi về hướng mình. Những ánh mắt trìu mến của các chú bác cùng nhìn về phía tôi, một đứa bé từ Miền Nam ra và có mặt duy nhất tại nơi đó. Các chú bác lại hỏi tôi rất nhiều câu hỏi như ngày hôm qua như: “Con bao nhiêu tuổi?”, “Con ra đây với ai?”, “Có mấy gia đình ra thăm nuôi vậy con?”, “Ba con tên gì?” hay “Đồng bào mình trong Nam thế nào hả con?” Hòa trong những câu hỏi, tôi nghe rất rõ những câu căn dặn:
- Trưa nay, con nhớ ra ngã tư này lượm các thư tay nha con.

Tôi đã trả lời các câu hỏi và hứa là sẽ ra lại đây trưa nay.
Tôi đứng đó nhìn các chú bác mà lòng cảm thương và quặn đau trong lòng. Các chú bác trong màu áo tù xám bạc đã cũ và không lành lặn, thân hình gầy gò, mặt bơ phờ và rạm nắng. Tôi đã đứng sát ngã tư đó nhìn từng đội người tù đi qua và các đội đã rẽ theo ba hướng khác nhau. Có nhiều chú bác đi qua đã vuốt đầu hay nựng lên khuôn mặt tôi. Tôi đã nhận được rất nhiều tình cảm yêu thương của các chú bác cho một đứa bé trạc tuổi con mình. Tôi đã cảm nhận được sự thương nhớ gia đình và Miền Nam của các chú bác khi ấy.
Sau đó, tôi chạy về gian nhà thì được mẹ cho biết là gia đình tôi và gia đình Tuấn sẽ được cho gặp ba chiều nay. Tôi rất vui và cũng hỏi xin mẹ mấy cái bao ny lon. Mẹ hỏi tôi để làm gì và tôi cho biết là con sẽ đi lượm thư tay trưa nay. Sau khi mẹ cho hai cái bao ny lon, tôi rủ Tuấn cùng thả bộ ra con đường cho vui. Trên đường đi, chúng tôi thấy có rất nhiều chú bác đứng bên trong một hàng rào cây. Tuấn và tôi bước tới thì được các chú bác kêu vào chơi. Nếu tôi nhớ không sai, thì đây là tổ làm đồ nguội vì các chú bác đã cho chúng tôi những cây lược kim loại làm bằng vỏ đạn. Các chú bác đã ôm hôn và tung hứng chúng tôi lên trên không rồi chụp lại. Chúng tôi cũng được các chú bác hỏi nhiều câu hỏi.
Sau khi chia tay với các chú bác, Tuấn và tôi tiếp tục đi xa hơn nữa để tìm xem các chú bác khác đang bị bắt làm việc ở đâu. Đang đi, chúng tôi phát giác ra một hàng rào với những cây xanh thật cao (cao hơn chúng tôi) che kín. Tuấn và tôi rón rén đi dọc theo hàng cây tới trước một cái cổng. Nhìn qua một sân đất, chúng tôi thấy một tên công an, từ bên trong căn nhà bước ra, rồi hét thật to:
- Đ. M. chúng mày đi đâu đây? Tao sẽ bắt nhốt hết chúng mày.

Gã công an chụp lấy chiếc xe đạp chạy về hướng chúng tôi. Cứ nghỉ là mình bị rượt đuổi bắt, tôi và Tuấn chạy một mạch thật nhanh về tới căn nhà thăm nuôi. Đứng bên trong căn nhà, tôi thấy tên công an đạp xe ngang và chạy về hướng trại K3.
Sau này, tôi nghỉ rằng tên công an này chắc là cán bộ cao cấp của trại nên được cấp nhà ở bên ngoài trại. Hơn nữa, trong khi các công an khác phải dẫn những đội người tù đi lao động thì hắn nhởn nhơ ở nhà. Trên ghế nhà trường hay qua tuyên truyền ở địa phương, chúng ta thường được nghe nói: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân hay nào là đạo đức cách mạng”. Đó những tuyên truyền dối trá, tương phản với những gì tôi nhìn thấy: Một tên công an chửi thề và hăm dọa hai đứa bé 9 tuổi.
Với tính hiếu kỳ, tôi đã đi bộ một mình về hướng trại K3 mà tôi chưa đi tới đó. Đi mãi một đoạn đường, tôi thấy một bác thật già ngồi bên trong một cái chòi lá, bên ngoài là những líp cây cà chua mà trái còn non xanh. Tôi đã đến cái chòi và bác đã bảo tôi vào chơi. Tôi rất ngạc nhiên là chỉ có một mình bác ngồi đó không một người bạn tù hay một tên công an canh giữ. Bác cho tôi biết là bác già rồi nên không thể làm việc nặng, vì thế được giao chăm nom những líp cà này. Ngồi trò chuyện với bác, tôi đã quên bẵng đi là mình đã muốn đi tới sát trại K3. Bác cho tôi biết là đã tới giờ các đội sẽ về trại ăn trưa. Nghe tới đó, tôi liền chào tạm biệt bác và chạy nhanh về gian nhà để cùng ăn trưa với mẹ.
Trưa hôm đó, tôi rủ Tuấn cùng đi tới ngã tư để đứng chờ các đội ra đi lao động. Khi từng đội rẽ trái hay phải tại ngã tư, các chú bác đi trước liền liệng những mẫu thư giấy, được cuốn nhỏ, sang hai bên lề đường. Những mẩu giấy bay hàng loạt thật nhanh và rơi rãi khắp nơi. Sau khi các đội đi qua thật xa, Tuấn và tôi chạy sang hai bên lề đường cẩn thận tìm và nhặt hết những mẫu thư tay. Tôi đã cầm hết những bao thư nhặt được về cho mẹ tôi.
Thế rồi giờ phút mong chờ của mẹ và tôi được gặp lại ba tôi đã đến. Mẹ tôi xách các bao quà gởi cho ba dẫn tôi bước qua gian nhà thăm nuôi. Gia đình tôi và gia đình Tuấn được xếp ngồi chung vào một băng ghế ở giữa có cái bàn dài. Ba tôi và ba Tuấn, bị hai tên công an áp giải từ trại K3 ra, ngồi vào băng ghế đối diện. Một tên công an ngồi ở đầu bàn để quan sát buổi thăm nuôi. Khi nhìn thấy ba tôi trong thân hình gầy guộc và khuôn mặt khác lạ hốc hác, mẹ và tôi rất ngỡ ngàng và khóc thật nhiều. Mẹ và tôi đã chòm qua bàn để ôm và nắm tay ba, thì bị tên công an với giọng nói hống hách, hét lên:
- Bà và con bà ngồi xuống tại chỗ cho tôi.

Tôi cảm thấy căm hận về hành động kiểm soát và mất lịch sự của tên công an. Thời gian thăm nuôi chỉ diễn ra khoảng 30 phút dưới sự quan sát và lắng nghe của những tên công an có mặt tại đó, vì thế chúng tôi chỉ xoay quanh chuyện gia đình. Ba tôi đã hỏi thăm về các em tôi, về bà nội tôi, về ông bà ngoại tôi và về bà con xa gần. Mẹ tôi đã kể cho ba nghe về gia đình và mẹ báo cho ba tin buồn là bà nội tôi đã qua đời chỉ vài tháng sau khi ba tôi, các bác tôi và anh họ tôi đi tù CS. Ba tôi cho mẹ biết là qua các lá thư mẹ gởi cho ba tôi trước đây, cho dù mẹ tôi đã không báo tin nội mất vì sợ ba buồn, ba tôi đã có linh tính là bà nội tôi không còn trên cõi đời này. Ba đã hỏi tôi:
- Con học lớp mấy rồi, học có giỏi không con? Các em con thế nào rồi?

- Con sẽ vào lớp 5 và con học giỏi. Các em rất ngoan và biết nghe lời mẹ. Tôi thưa lại với ba.
Ba tôi đã căn dặn tôi:
- Con là con lớn trong nhà, ráng phụ giúp mẹ và trông em. Giúp các em trong việc học. Ba luôn thương nhớ các con nhiều.

- Dạ, ba. Tôi đáp lại trong lời nói nghẹn ngào không ra tiếng.
Ba bảo mẹ tôi đi nhận lại những đồ vật ba tôi mang theo khi đi tù, vì tù CS không bị kêu án, không biết ngày nào về.
Hòa trong những tiếng khóc, tiếng nức nở cho chồng cho cha, tôi nghe những tiếng quát thật to của tên công an với ba của Tuấn:
- Anh phải nói chuyện với vợ con anh chứ. Nếu anh không nói, chúng tôi sẽ không cho vợ anh gửi thư, gửi quà hay ra thăm nuôi anh nữa.

Mặc cho những lời khuyên và răn đe của tên công an lập đi lập lại, khi lên giọng khi xuống giọng, tôi vẫn không thấy ba Tuấn thốt ra một lời nào với mẹ con Tuấn.
Khi giờ thăm nuôi đã hết, ba Tuấn và ba tôi bị dẫn về trại K3, thì tên công an ngồi lại và nói với mẹ Tuấn là sẽ cho gia đình Tuấn gặp lại ba Tuấn thêm vài lần nữa để khuyên ông nói chuyện trở lại. Tên công an kể là đầu năm nay (1979) khi ở Yên Bái, ba Tuấn đang đi lao động và đã bỏ chạy về hướng bộ đội Trung Cộng khi chúng đang đánh chiếm qua biên giới VN. Ba Tuấn bị bắt lại và bị đưa vào trại K3 này và từ đó ông không nói chuyện với bất kỳ ai.
Ngày hôm sau, mẹ dẫn tôi qua trại K1 làm đơn nhận lại một số tư trang cá nhân của ba như đồng hồ. Nhờ ở lại thêm một ngày, tôi lại chạy ra ngã tư cả buổi sáng và buổi trưa một mình để chờ và nhặt tiếp các lá thư tay mà các chú bác còn muốn gởi. Tuấn không đi nhặt thư với tôi vì gia đình Tuấn được cho gặp ba Tuấn vào buổi sáng và có thể vào buổi chiều hôm đó. Xế trưa, mẹ và tôi chào tạm biệt mẹ con Tuấn để ra đón xe đò về lại bến xe Vinh.

Mẹ tôi đã để lại những vật dụng mà có thể giúp cho những gia đình thăm nuôi sau này cần đến như những hột diêm quẹt và đèn cầy. Mẹ và tôi đi bộ ra con đường cái. Tới nơi thì trời đã sập tối và tôi thấy dì năm, bà cụ và vài gia đình khác đã ra ngồi chờ xe. Chờ mãi mà vẫn không thấy một chiếc xe nào chạy từ hướng Thanh Hóa về Vinh trong khi trời đã quá khuya, hơi sương lạnh đã xuống thấp. Không thể ngồi ở con đường hoang vắng không một bóng đèn, các gia đình chúng tôi cùng đi bộ ngược lại vào ngủ ở các gian nhà thăm nuôi. Đi trong đêm tối tĩnh mịch dưới một bầu trời không trăng không sao, tôi bắt gặp rất nhiều đom đóm tỏa sáng như mở lối cho chúng tôi về tới gian nhà thăm nuôi. Phần vì đói và khát, phần mệt lả vì chuyến đi bộ dài, một chị trong đoàn chúng tôi đang đi, đã ngã quỵ xuống. Các mẹ và các bà xúm lại xức dầu và giựt tóc mai để cho chị tỉnh lại. Chúng tôi đã đi trong đói khát và sương lạnh về đêm trên quảng đường đất trong vùng rừng núi Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh.
Sáng hôm sau, các gia đình chúng tôi dậy sớm và đi bộ ra con đường cái và đã đón được chuyến xe về lại bến xe Vinh. Ngồi trên xe lửa, tôi mãi mông lung hồi tưởng lại những giây phút, những hình ảnh và những kỷ niệm mà tôi đã ghi lại trong những ngày qua.
Tôi đã nhìn thấy sự nghèo nàn đói khổ, đạo đức suy đồi, và tệ nạn cướp bóc dọc đường, sớm được hình thành không lâu sau khi CS cưỡng chiếm MN.
Tôi nhận ra được sự dối trá của CS khi rêu rao ở MN là họ đã xây dựng thiên đường CS trên đất Bắc và cái thiên đường đó là những nghèo nàn và lạc hậu của người dân, qua từng cái ăn, cái mặc và những cái sinh hoạt hằng ngày.
Tôi đã tận mắt nhìn thấy nỗi nhục nhằn trong thân hình gầy guộc và khuôn mặt hốc hác của những người tù CS, bị đày ải làm việc khổ sai trên những vùng đất núi rừng khô cằn và hoang dại.
Tôi nhận được tình yêu thương và thăm hỏi của ba tôi và của các chú bác, mà qua đó tôi đã cảm thấy nỗi thương nhớ gia đình của ba và của các chú bác cho gia đình vợ con và người thân ở Miền Nam.
Tôi đã nhìn thấy sự gian nan và vất vả của các mẹ, các con, và các bà trong hành trình đầy bất trắc và hiểm nguy lặn lội từ MN ra MB thăm chồng, thăm cha và thăm con bị tù đầy trong vùng rừng thiêng nước độc.
Khi xe lửa vượt qua dòng sông Bến Hải xuôi Nam, nhìn qua khung cửa sổ, tôi nhìn một đàn vịt bơi lội trên một dòng kênh. Bỗng chúng cất cánh bay lên, bay về một hướng theo một con vịt đầu đàn. Qua hình ảnh ấy, tôi đã cảm thương cho thân phận mình, cho anh em tôi, và những người bạn đồng cảnh đã không có cha bên cạnh để dìu dắt cất cánh bay lên trong những bước đường của tuổi thơ phía trước.
Khi ra thăm ba, đôi tay của mẹ tôi trĩu nặng hành lý với những món quà được đong đầy những tình yêu thương của mẹ, của anh em tôi, của bà con họ hàng và láng giềng gần xa gởi cho ba. Khi ra về, mẹ tôi đã mang về những lá thư tay, đong đầy những tình cảm thương nhớ của các chú bác, những người tù CS, gởi về cho gia đình vợ con và thân nhân ở quê nhà. Mẹ tôi đã lựa những lá thư ở Sài Gòn và đem đến giao tận tay cho gia đình. Những lá thư ở các tỉnh, mẹ tôi đã gởi tem thư đến cho các gia đình. Tôi rất vui là mẹ và tôi đã làm được điều có ý nghĩa khi giúp mang lại tin tức của các chú bác qua các lá thư về với gia đình.
Một chuyến ra Bắc thăm ba, đúng vậy, đó là một chuyến duy nhất mà mẹ tôi đã chạy tiền để dẫn tôi ra thăm trong suốt 10 năm ba bị tù đày trên đất Bắc. Những năm tháng sau này, cuộc sống gia đình tôi dưới sự cai trị độc tài của CSVN, ngày càng nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc thì lấy đâu ra tiền cho những chuyến thăm kế tiếp. Một chuyến thăm ba thôi cũng đủ để cho tôi nhìn thấy và ghi lại nhiều điều.
Tôi đã ngạc nhiên, đã học hỏi, đã ghi nhận, đã thương cảm, và đã khóc thật nhiều qua một chuyến ra Bắc thăm ba. Tôi đã trưởng thành hơn khi thấy rõ sự thực về Chủ Nghĩa Cộng Sản (CNCS), gian manh và giả dối.
Cái CNCS, qua tuyên truyền, đã gieo rắc hận thù cho người dân MB lên xã hội tự do và dân chủ của MNVN. Và tôi được biết, có những người dân MB đã ném đá và chửi bới những người tù CS từ Miền Nam ra. Không lâu sau, chính người dân này đã quý mến và thương yêu những người tù CS, cho thức ăn, nước uống và đã thốt ra rằng “Ước gì các chú bác ra đây giải phóng chúng tôi khỏi ách CS.”
Cái CNCS, qua tuyên truyền cho sự nghiệp giải phóng MN, đã chiêu dụ và ép bức mọi tầng lớp người dân ở MB, từ già tới trẻ, ngay cả trẻ em 12, 13 tuổi, cầm súng giết hại dân lành cho ý định xâm chiếm MN. Và tôi được biết, rất nhiều người lính CS đã vỡ mộng khi nhìn thấy sự tự do và phồn vinh của phố thị MN sau khi CSBV đã vào xâm chiếm.
Cái CNCS, qua tuyên truyền, đã chiêu dụ một số thanh niên MN vào bưng ra Bắc để chống Mỹ cứu nước. Và tôi được biết, rất nhiều người trong đám thanh niên này đã vỡ mộng khi nhìn thấy những sự thật trên đất Bắc qua sự hiện diện của lính CS Nga và Tàu và CSBV chỉ là ngụy quyền do CS Nga và Tàu điều khiển. Những thanh niên MN này càng vỡ mộng khi bị gạt ra khỏi guồng máy cầm quyền sau ngày CSBV đã thôn tính MN.
Cái CNCS đã cướp bóc tài sản của dân chúng, đàn áp và thống trị người dân, và băng hoại luân thường đạo lý của dân tộc. Chính CNCS đã phân hóa xã hội VN qua nhiều tầng lớp thống trị do Đảng CSVN cầm quyền xuống tầng lớp bị trị là người dân không có cái quyền căn bản nào của con người. CNCS đã tự cho là xã hội không có giai cấp, nhưng thật ra là xã hội có nhiều giai cấp mà chúng đã ngồi trên đó.
Tôi viết bài này khi giỗ đầu của ba tôi sắp tới, một người lính VNCH đã suốt đời chiến đấu chống CSVN, từ khi trong quân đội VNCH, tới lao tù CS, và cho tới những ngày tháng cuối đời. Thương nhớ ba đã giúp tôi hồi nhớ nhiều kỷ niệm với ba và nhất là gặp lại ba trong tù.
Tôi đã được nghe ông kể nhiều những mẫu chuyện về đời lính kiêu hùng và những năm tháng tù đày gian khổ, trong đó có những người bạn tù bất khuất luôn giữ khí phách trước cường quyền, cai tù CS. Điển hình, bác Nguyễn văn Thuật đã can trường luôn lớn tiếng gọi tên những tội đồ của dân tộc VN ra nguyền rủa như: Hồ chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, và Phạm văn Đồng… vv và vv. Ba tôi đã cho tôi hiểu nhiều về Quốc Gia và Dân Tộc và lòng vững tin vào sự thành công trong công cuộc đấu tranh chung của toàn dân VN, xóa bỏ chế độ và chủ nghĩa CS ra khỏi đất nước Việt Nam.

Dòng thời gian có dần trôi, tôi vẫn in đậm những gì đã xảy ra cho gia đình tôi và cho thế hệ chúng tôi trong cái ngục tù lớn của CS. Những mất mát trong tuổi thơ không có cha bên cạnh thì không có gì có thể đền bù được. CSVN đã hèn hạ trả thù bằng cách lưu đày các Quân-Dân-Cán Chính MNVN trong các trại tù khổ sai từ Nam ra Bắc mà chúng giả dối cho là trại “tập trung cải tạo”. Mẹ mất con, vợ mất chồng, và con mất cha đó là những gì CS đã làm cho cái tuyên truyền của chúng, là xóa bỏ hận thù sau khi chiếm MN. Chính CSVN đã, đang và mãi gieo rắc sự căm thù trong lòng của dân tộc VN lên trên vô số những hành động tồi tệ của chúng, nhất là dâng hiến đất đai bờ cõi của VN cho ngoại bang, quan thầy Tàu Cộng.
CSVN ngày nay đang run sợ trước những ngọn lửa đấu tranh của người dân Việt trong và ngoài nước, vì thế CSVN thẳng tay đàn áp và cầm tù các nhà đấu tranh. Liệu CSVN có đủ sức để dập tắt những ngọn lửa đấu tranh nếu cùng bùng cháy một lúc? Những ngọn lửa cùng bùng lên, quyện vào nhau, sẽ trở thành ngọn lửa thật lớn đốt sạch cái chế độ CSVN vô thần. Hơn ai hết, người CS thừa biết ngày ấy sẽ đến và chúng đã và đang tìm đường tháo chạy bằng cách gởi con em ra các nước phương Tây để bảo lãnh cho chúng sau này. Hiện tại, người CS bám víu vào chế độ CS chỉ vì quyền lợi cho cá nhân và an toàn của gia đình chúng. Vì ngày tàn của chế độ CS là ngày chúng bị đền tội trước dân tộc VN và trước nhân loại yêu chuộng tự do và hòa bình của thế giới.
Tôi tin chắc ngày ấy sẽ tới và bạn cũng hãy vững tin nhé!
Hùng Biên

Gói bánh chưng, gói trọn ân tình của người Việt Nam Kalynh Ngo/Người Việt

Những chiếc nồi nấu bánh chưng truyền thống. (Hình: Người Việt.)
Việt Nam, (NV) – Gói bánh chưng, bánh tét đã trở thành một tập quán văn hoá cổ truyền của người dân Việt trong mỗi dịp đất trời giao mùa. Không chỉ đơn giản là món ăn, đó còn là nét đẹp tinh thần của một dân tộc.
Chẳng ai biết được thật sự phong tục gói bánh chưng, bánh tét ngày Tết có tự bao giờ. Chỉ biết rằng, trong câu chuyện hoàng tử Tiết Liêu (hay còn gọi là Lang Liêu), người con trai thứ 18 của Hùng Vương đời thứ 6, nằm mộng thấy thần linh mách bảo, chỉ dẫn cách làm hai loại bánh để dâng lên vua cha, thì một trong hai bánh đó là bánh chưng hình vuông mang tượng hình Đất (âm.)
Từ đó, bánh chưng, bánh Tét, bánh dày trở thành một phần không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên, trên mâm cỗ của gia đình người dân Việt Nam những ngày Tết.
Từ tình Mẹ Cha…
Qua bao đời ngược xuôi, bao cuộc chiến nổi trôi của dân tộc, có những nền văn hoá đã phải lụi tàn, nhưng chiếc bánh chưngcủa hoàng tử Lang Liêu ngày xưa vẫn được giữ nguyên vẹn hình hài và cách thực hiện. Tất cả vẫn là nguyên liệu từ thiên nhiên như chiếc lá chuối, lá dong bên ngoài. Bên trong là nguyên liệu được chế biến từ gạo nếp, vật quí nhất trong Trời Đất dùng làm bánh; ôm chặt phần lõi phía trong gồm đậu xanh, thịt lợn.
Lá được lựa chọn và lau, vuốt thật kỹ. (Hình: Người Việt)
Bánh chưng qua bao đời vẫn là tượng hình Cha Mẹ sinh thành với hai chiếc lá to, mạnh mẽ, hoàn hảo không “tì vết” dùng để bao bọc bên ngoài. Những chiếc lá nhỏ được che chở bên trong để cùng nhau đủ sức bao bọc phần nhân bánh bên trong.
Từng chiếc lá được lựa chọn và lau, vuốt thật kỹ trước khi cho vào bên trong phần nhân bánh. Những đường gân lá phải thẳng đều để chiếc bánh ra đời được vuông vắn. Nhân bánh cũng phải được chuẩn bị thật kỹ và chu đáo. Gạo, nếp phải ngâm, đãi; đậu xanh phải vừa chín tới.
Có khác nào như đời Mẹ Cha luôn chuẩn bị mọi điều tốt nhất trước khi mang trong người một sinh linh bé nhỏ?
Gói bánh phải gói chặt tay. Tất cả đậu, thịt và gạo phải nằm gọn, ngay thẳng tầng lớp bên trong 4 phần lá; để khi bỏ vào nồi luộc chín thì không thứ nào bị tuột ra ngoài. Có khác nào tình Mẹ tình Cha suốt đời bảo bọc cho con dù trải qua bao bể dâu mưa nắng? “Lá chuối xanh mỗi lớp một niềm vui.” (Lê Hoàng Trúc.) Một trời hạnh phúc của Mẹ Cha đong đầy trong ngày tháng nhìn con khôn lớn.
…rồi tình làng xóm
Thế rồi, theo cùng năm tháng, chiếc bánh chưng vượt ra khỏi không gian một gia đình để đi xa hơn, mang đậm tình làng nghĩa xóm.
Mỗi độ Xuân về, người Việt Nam lại í ới hỏi nhau: “Ông/Bà/Cô/Chị…gói bánh chưa?”; hay “Mai bánh chưng nhé!”; hay “Tối qua canh bánh nhé!”
Hay có cả Hội bánh chưng, giống như chơi hụi ở vùng quê; rồi bánh chưng đụng, là hình thức vài gia đình chung tay, chung sức, chung “vốn,” người ít kẻ nhiều để cùng gói bánh.
Sau một năm làm lụng vất vả, những ngày cận Tết chính là lúc họ có thời gian ngồi lại với nhau, chia sẻ với nhau trong thâm tình làng xóm.
Chiếc bánh chưng của chàng hoàng tử Lang Liêu ngày xưa để dâng lên vua cha giờ đây đã trở thành sợi dây tình nghĩa kết nối láng giềng. Những đêm ngồi canh bánh bên bếp lửa bập bùng, rồi “chén chú, chén anh,” nghe mùi lá quyện cùng mùi khói củi. Tình quê cứ thế mà vuông đầy như chiếc bánh.
Chiếc bánh chưng khi ra đời đòi hỏi từng công đoạn phải tỉ mỉ, vén khéo. Chỉ cần một bước sai, một bước thiếu, một bước không cẩn thận, chiếc bánh sẽ không được đầy đặn cho dù đặt ở trong khuôn mà thời nay người ta vẫn hay dùng để gói bánh.
Có khác nào người với người phải vuông đầy, trọn vẹn với nhau thì cuộc đời sẽ xanh đẹp như màu bánh, thơm như mùi gạo nếp? Bàn tay người làm bánh đã đặt trọn vào đó những cầu mong cho một năm yên bình, sung túc.
Nhưng một bàn tay thì chỉ có thể làm ra một chiếc bánh. Niềm vui không thể nhân đôi. Hạnh phúc khó được san sẻ. Thế nên, hàng trăm chiếc bánh chưng ngày Tết đã trở thành nhân tố bắc cầu cho tình người lan toả.
Những ngày gói bánh, những đêm thức canh nồi Bánh chưng ở Nhà thờ Phú Trung, Phường 11, Quận Tân Bình, trước ngày đưa ông Táo chầu Trời đã khắc hoạ rõ cái tình người ấy.
Mọi người quây quần gói bánh chưng ở Nhà thờ Phú Trung.
 (Hình: Người Việt.)
Họ vốn là những người xa lạ, không cùng huyết thống. Nhưng hơn ai hết, họ biết rằng mình đang cùng hít thở một không khí của mùa Xuân trên quê hương. Quê hương đó dù có đang điêu linh thì mùa Xuân vẫn là mùa của yêu thương. Họ mong muốn chia cho nhau, cho những người cô thế niềm hy vọng và chút gì được đủ đầy trong thời khắc đón Xuân.
Có một vị Linh mục gọi đó là những nồi bánh chưng Lộc Hưng.
Đây là những phần bánh sẽ trao vào tay của người dân oan Lộc Hưng. Nhưng không phải để họ ăn đâu. Trong kế hoạch, họ sẽ làm 1 món quà Xuân của những người bị mất của, bị bất công nhưng được cộng đồng giúp đỡ, thì đến ba6y giờ họ chia sẻ chút xíu niềm vui vừa mới được nhen nhóm cho những người nghèo hơn, đau khổ hơn trong những vùng lân cận mà họ tận mắt chứng kiến còn thê thảm hơn họ.”
Người đãi gạo, người lau lá, người gói bánh. Đêm về, họ quay quần bên bếp lửa “canh bánh chưng chờ trời sáng.” Ngay từ lúc ban đầu cùng ngồi gói bánh, họ đã cùng nhau sống một giá trị chung, cho cộng đồng và cho chính cuộc sống của riêng từng cá nhân ấy.
Linh mục Nguyễn Ngọc Thanh đồng ý điều đó, ông nói:
Từ ngày xưa ông bà ta đã có rồi, tức là khi họ nấu với nhau, họ đến với nhau, chia sẻ với nhau như 1 công cuộc chung. Vừa làm, vừa nói chuyện, cảm thông với nhau, họ giải quyết được nhiều vấn đề ngăn cản mà trước đây chỉ với thói quen sử dụng công nghệ thôi, họ không thể vượt qua được cảm xúc đó. Khi họ cùng làm với nhau, họ hoá giải được những điều đó và họ vượt nó 1 cách dễ dàng.”
Khi còn có thể, hãy cùng ngồi với nhau, giữa trời và đất, san sẻ, hoá giải, vượt qua những cảm xúc căng thẳng, sang chấn phức tạp mà vốn dĩ luôn chực chờ bên cạnh cuộc sống con người.
Đó là lời khuyên của vị Linh mục trong một đêm ngồi canh bếp lửa nồi Bánh chưng Lộc Hưng.
Nhật báo Người Việt gói bánh chưng. (Hình: Người Việt.)
Cho đến tình người xa xứ
Thế rồi, chiếc bánh chưngcùng cô gái lớn lên, tạm biệt Mẹ Cha theo chồng về xứ lạ. Chiếc bánh chưng theo người Việt vượt muôn trùng biển khơi để đến vùng miền tự do.
Ngày vu quy tôi theo chồng tá túc
Xa mẹ hiền khuất vạn dặm trời mây
Chiếc mủng tròn ngày cũ vẫn còn đây
Từng hạt nếp thiếu hơi bàn tay mẹ
Mười năm tròn bên đời con lặng lẽ
Cũng tập tành thay mẹ gói bánh chưng
Nếp xứ người rời rạc có…là mừng
Thêm hạt đậu cũng không bùi, không dính…” (Chiếc bánh chưng xanh – thơ Lê Hoàng Trúc)
Cuộc sống mưu sinh xứ người bộn bề với trăm nỗi lo toan. Nơi đó, mua một chiếc Bánh chưng rất dễ dàng, nhưng gói một chiếc bánh lại là chuyện khác. Không thể có những đêm ngồi bên bếp lửa nghe mùi khói củi quyện với mùi quê. Không thể có những sáng, những chiều quây quần chị chị, em em tất bật cho gạo trắng, nếp trong, đậu vàng, thịt đỏ. Hiếm lắm để có những chiếc bánh được làm ra chỉ để làm quà ngày Tết.
Chị Mai, người gói bánh chưng chỉ để tặng người thân ngày Tết. 
(Hình: Người Việt.)
Thế nhưng, không phải vì thế mà tình người, tình quê bị quên lãng. Hiếm, chứ không phải là không có.
“Những ngày Tết, cái chuyện mình đi mua bánh chưng tặng người thân là chuyện dễ lắm. chuyện làm mới là quan ngai của nhiều người. Tôi không biết mình còn làm được bao lâu vì tay cũng đau nhiều, nhưng khi nào tôi còn làm được thì tôi vẫn làm. Tôi cũng hy vọng ngày nào các con mình thấy mẹ làm thì cũng muốn làm.”
“Những ngày giáp Tết đón Xuân sang
Lạc bước đường xa dẫu muộn màng
Đất trích lưu vong đời tỵ nạn
Giọt cà phê đắng chảy miên man
Tôi ngắm nhìn năm cũ ngược dòng
Đoá thời gian ngập nước trôi sông
Quãng đời mưa lũ dài vô tận
Cùng bố phiêu du phiên chợ hoa…”
Vừa gói bánh, chị vừa đọc bài thơ chị viết vào năm Nhâm Tý 1972.
Chị là chị Mai, sống ở thành phố Westminster, California. Chị đã mang trọn vẹn ký ức tuổi thơ ở quê nhà sang nước Mỹ. Trong chuỗi ký ức đó, là những ngày gói bánh chưng cùng cha mẹ. Sau mấy mươi năm, chị vẫn giữ đúng từng thao tác, thực hiện đúng ý nghĩa của từng bước, xếp lá, vuốt lá, đặt nhân, gói bánh…
Lá vẫn phải xanh to, sớ lá vẫn phải thẳng, nhân bánh vẫn phải đủ đầy, gói bánh vẫn phải chặt tay…
Chiếc bánh chưng như đời dân tộc. Dù có qua bao thăng trầm, dù có bôn ba, thì tình người, tình quê hương xứ sở vẫn luôn được giữ mãi trong từng gia đình người Việt Nam xa xứ.
Phải một lần gói bánh, hoặc nhìn, nghe người gói bánh kể chuyện, mới thấy được trọn vẹn ân tình và ý nghĩa của vũ trụ, nhân sinh gói trọn trong chiếc bánh chưng cổ truyền của người Việt Nam. 
(Kalynh Ngo)

Tuesday, January 29, 2019

Phim Silent Night.. "Silent Night" - 2002 Phim có nội dung từ một Câu chuyện có thật trong đêm Giáng Sinh 1944

Elisabeth Vincken, một phụ nữ Đức vì trốn tránh chiến tranh nên đưa con trai 12 tuổi của mình tên là Frisbey lánh xa trong rừng thẳm trong một căn nhà gỗ. Tuy rằng xa xa vẫn nghe được tiếng súng vọng lại, nhưng một nơi hoang vắng thế này, nghe chừng như an toàn. Đêm Noel, hai mẹ con mong đợi ông bố đang làm việc trên thị trấn quay về đây đoàn tụ ăn bữa cơm Noel. Elisabeth có nuôi được một con gà béo đặt cho nó cùng tên với viên phó tướng của Hitler là Hermann Göring. Cô mong muốn đợi chồng về sẽ thịt con gà trống này để cả nhà thưởng thức. Hôm ấy, tuyết phủ dầy đặc, che lấp đi tất cả mọi nẻo đường trên núi, hy vọng người bố trở về thực sự là mỏng manh.  Đột nhiên có tiếng gõ cửa, cậu bé Frisbey tưởng rằng bố đã về chạy ra mở cửa, nhưng mẹ cậu ngăn cậu lại, thổi tắt nến và tự mình ra mở cửa, hai người lính đội mũ sắt xuất hiện trước cửa, một người nữa bị thương nằm lê trên tuyết, máu rỉ nhuộm đỏ một vùng. Họ dùng tiếng Anh để giải thích cho cô điều gì nhưng cô không hiểu, trong tiềm thức cô đã biết rằng đây là quân địch, sự nguy hiểm rất có thể xẩy ra. Đây chính là ba người lính Mỹ thuộc sư đoàn 8 binh đoàn 121 bộ binh do bão tuyết nên đã lạc đến đây, họ bị lạc trong rừng đã ba ngày, mệt mỏi, đói rét và nhiều vết thương đang dằn vặt họ.Người nằm trên tuyết bị thương ở đùi, mất rất nhiều máu, cái chết như đang  rình rập với anh. Họ mang trên mình súng đạn, có thể ập vào nhà cưỡng chiếm, nhưng họ vẫn lịch sự, gõ cửa và xin phép chủ nhân cho vào. Elisabeth dựa vào cửa nghe những lời năn nỉ mà cô không nghe rõ nhưng cô hiểu được họ muốn gì và giang tay mời họ vào. Cô để người lính bị thương nằm lên giường mình, xé khăn trải giường băng bó vết thương cho anh, gọi con trai đi giết gà và gọt khoai tây để chuẩn bị đồ ăn tối của đêm Noel. Chẳng mấy chốc, căn nhà nhỏ đã thơm lừng mùi gà nướng, và rồi Elisabeth phát hiện một người trong họ nói được tiếng Pháp, cô và họ bắt đầu giao lưu và không khí căng thẳng dần dần tan đi. Chốc lát, lại có tiếng gõ cửa, cậu bé cho rằng có lẽ lại có thêm quân Mỹ bị lạc, chạy ra mở cửa thì phát hiện bốn lính Đức đứng ở cửa. Frisbey đứng ngây người, bởi cậu ta đã được dậy dỗ quy định của Đức quốc xã nếu như nuôi giữ kẻ địch trong nhà sẽ bị giết không tha thứ. Lúc ấy Elisabeth bước ra niềm nở chào các lính Đức bằng câu : "Merry Christmas", rồi nghe viên hạ sĩ giải thích nhóm người bị lạc trong rừng, muốn ngủ nhờ một đêm. Elisabeth tươi cười mời họ vào và nói:" Mời các anh vào nhà cho ấm và cũng mời các anh chung vui bữa tối Noel an lành với chúng tôi. Nhưng gia đình chúng tôi còn có một số vị khách khác, họ không phải bạn của các anh nhưng rất mong sự dung nạp của các anh với họ.", sĩ quan Đức lập tức cảnh giác hỏi:" Trong đấy là ai? có phải quân Mỹ?" , Elisabeth trả lời phải và nói tiếp:" Đêm nay là đêm bình an, không ai được hành sự ở đây, xin các vị bỏ vũ khí ngoài cửa cho", quân Đức nhìn chằm chặp vào Elisabeth, cuối cùng cũng bỏ súng ngoài cửa rồi mới bước vào căn nhà gỗ.  Lập tức, không khí trong căn nhà căng thẳng hẳn, một lính Mỹ đã nhanh tay rút súng chuẩn bị bắn vào quân Đức, nhưng Elisabeth đã lớn tiếng chặn lại, cô dùng tiếng Pháp lặp lại câu vừa nói ngoài cửa với lính Đức:" Đêm nay là đêm bình an, không ai được hành sự ở đây, đưa súng cho tôi.", sau đó cô sắp xếp cho hai bên binh lính ngồi xen kẽ quanh bàn ăn, do nhà hẹp nên họ ngồi sát vào nhau, vai chạm vai, còn Elisabeth thì tươi cười đi chuẩn bị đồ ăn..  Đồ ăn trong bếp toả hương thơm lừng, cô vừa làm việc vừa nhiệt tình nói chuyện vui vẻ, không khí căng thẳng tan đi. Sau đó, lính Mỹ moi thuốc lá ra mời lính Đức, lính Đức lấy chai rượu vang và bánh mỳ ra góp vui. Một lính Đức lấy dụng cụ cấp cứu của mình ra để băng bó lại vết thương cho người lính Mỹ bị thương, anh ta là quân y, biết tiếng Anh, giải thích cho lính Mỹ biết vết thương bởi gặp trời lạnh, chưa bị nhiễm trùng, chỉ có mất máu quá nhiều, nghỉ ngơi vài ngày sẽ khỏi. Sự nghi kỵ đề phòng lúc này hầu như đều đã tiêu tan. Đồ ăn được bầy ra, Elisabeth chắp tay cầu nguyện trước khi ăn, mắt cô rớm lệ và thành khẩn nói khẽ:" Cảm ơn ân điển của Chúa, ban cho chúng con niềm vui trong sự khủng khiếp của chiến tranh, được đoàn tụ một cách hoà bình trong căn nhà này. Trong đêm Noel an lành, chúng con xin thề rằng sẽ không phân biệt thù địch, hữu ái bên nhau, cùng nhau chia sẻ bữa cơm Noel đậm đà tình nghĩa này. Chúng con nguyện cầu cho chiến tranh mau kết thúc để mọi người bình yên trở về quê nhà.", lời nguyện vừa hết, khuôn mặt các binh lính đã tràn trề nước mắt. Mọi người bị xúc động với những lời cầu nguyện của Elisabeth, trong khoảnh khắc, mọi thù hận, căm ghét mà trên chiến tuyến dồn lại bỗng chốc tiêu tan thành mây khói, trong thâm tâm họ chỉ nghĩ đến gia đình, quê hương và người thân, một sự khát khao hoà bình trào dâng. Sau bữa ăn, họ cùng nhau bước ra khỏi căn nhà gỗ, lúc đó, bão tuyết đã ngưng, bầu trời đêm lấp lánh ánh sao, mọi người không ai bảo ai, cùng nhau ngẩng mặt tìm kiếm ngôi sao Bethlehem (Star of Bethlehem). (Đêm Giáng Sinh cũng làm chúng ta nhớ đến câu chuyện Ba Vua (Three Kings hay Magi) đến từ phương Đông, họ đã tìm ra nơi Chúa sinh ra đời để chiêm bái nhờ hướng theo ánh sao rực sáng trên hang đá ở Bethlehem. Ngôi sao sáng được gọi là Ngôi Sao Bethlehem (Star of Bethlehem) vì không ai biết ngôi sao ấy tên gì. Có nhiều giả thuyết về sự xuất hiện của ngôi sao ấy. Có thể đó là biểu hiện huyền bí hay là một phép lạ đánh dấu sự ra đời của Chúa Jésus ). Sau đó, 7 người lính đã từng là thù địch giết chóc nhau trên chiến trường lại cùng nhau ngủ chung dưới một mái nhà, họ trải qua một đêm bình an ấm áp, yên lành, đầy kịch tính...  Sáng hôm sau, Elisabeth nấu đồ ăn sáng cho mọi người rồi hai bên chia tay nhau lên đường, sĩ quan Đức căn dặn hướng trận địa của quân Đức để ba người lính Mỹ khỏi đi nhầm đến đấy, họ còn làm một cái cáng để cho người lính Mỹ bị thương nằm. Hai bên đều lưu luyến bắt tay từ biệt Elisabeth và cậu con trai Frisbey rồi ra đi ở hai hướng khác nhau. Câu chuyện chưa kết thúc, 14 năm sau, 1958, cậu bé Frisbey đã 26 tuổi, anh đã kết hôn và di dân sang Mỹ. Anh cư trú tại Hawaii và mở một tiệm bánh Pizza. Sau đó, anh có viết lại câu chuyện này và gửi cho nhà xuất bản "Reader's Digest", bởi đã nhiều năm nay, Frisbey ao ước được gặp lại những người trong cuộc buổi tối hôm ấy. Năm 1995, đài truyền hình Mỹ tiết mục " unsolved mysteries" đã đem câu chuyện này quay thành phim và chiếu trên kênh tivi, không bao lâu, một nhân viên dưỡng lão viện ở thị trấn vùng Maryland gọi điện thoại cho người phụ trách tiết mục, nói rằng ở nơi đây có một người lính già hay kể cùng một câu chuyện như vậy. Người lính đó là một trong ba người lính Mỹ đêm hôm đó, ông tên là Ralph. Rất nhanh, họ bố trí cho hai người gặp mặt, xa cách sau 50 năm, Frisbey và Ralph lại gặp nhau, hai người ôm nhau cảm động đến khóc. Ralph nức nở:" Mẹ cậu đã cứu sống chúng tôi", sau đấy Frisbey lại tìm được thêm một người lính Mỹ, nhưng những lính Đức thì không tìm lại được. Năm 2002, Frisbey qua đời, cùng năm ấy, một xưởng phim Hollywood có dựng lại câu chuyên này thành phim lấy tên là " The Silent Night " (Đêm yên tĩnh). Câu chuyện chỉ ra cho chúng ta thấy, Elísabeth chỉ là một phụ nữ người Đức bình thường, trong cuộc chiến tàn khốc, bà đã dũng cảm ngăn chặn giết chóc, giữ được sự tôn nghiêm của nhân tính. Hiển nhiên, dũng khí của bà, bắt nguồn từ tình yêu bác ái của Chúa Giê Su, và lòng trắc ẩn nhân đạo vốn có của loài người. Thiện tâm của bà, vượt lên trên sự thù địch, vượt trên cả chủng tộc, quốc gia, đánh thức nhân tính trong thâm tâm của hai phía thù địch. Chính bởi sự bất diệt của lòng nhân đạo là điều quý giá để bảo đảm nền hoà bình trên trái đất. Trong lúc chúng ta hân hoan đón mừng ngày lễ thiêng liêng này, hãy tĩnh tâm hồi ức ý nghĩa chân chính của Noel, lấy tinh thần cao đẹp của Chúa và tình yêu thương nhân bản, hoá giải hận thù, cầu nguyện cho thế giới hoà bình, không chiến tranh, không bạo loạn, không khủng bố, cùng nhau trải qua những đêm vui tươi và an lành.
Silent night, holy night!
All is calm, all is bright.
Round yon Virgin, Mother and Child.
Holy infant so tender and mild,
Sleep in heavenly peace,
Sleep in heavenly peace
 
Silent night, holy night!
Shepherds quake at the sight.
Glories stream from heaven afar
Heavenly hosts sing Alleluia,
Christ the Savior is born!
Christ the Savior is born
 
Silent night, holy night!
Son of God love's pure light.
Radiant beams from Thy holy face
With dawn of redeeming grace,
Jesus Lord, at Thy birth
Jesus Lord, at Thy birth
ST