Tuesday, April 9, 2019

Ngày 5 tháng 4 năm 1975 - Phi Vụ Cuối Cùng Lý Tống


Ngày 5 tháng 4 năm 1975, đang ngủ say trong phòng trực chiến, chúng tôi giật mình thức giấc vì những trái đạn pháo kích đầu tiên trong ngày của Việt Cộng. Có tiếng càu nhàu chửi thề vì bị phá rầy giấc ngủ ngon, có kẻ kéo lại chiếc mền xô lệch, trùm bó người như một đòn chả, tiếp tục ru cơn ngủ nướng. Pháo kích chỉ là chuyện thường tình đối với giới lính tráng. Một lịch sử bốn ngàn năm chiến tranh, từ đánh Tàu, Tây, Nhật rồi Cộng Sản, đã sinh ra trong máu người dân Việt một loại kháng tố. Bỗng tiếng chuông điện thoại reo inh ỏi. Như bị dí một điếu xì gà đang cháy đỏ vào chân, tôi nhảy chồm về phía điện thoại. Chỉ có tiếng gọi của nhiệm vụ mới đủ sức trấn áp cơn buồn ngủ và cơn giá lạnh ray rức da thịt buổi sáng.
—     Allo. Lý Tống tôi nghe.
—     Chào Hitler (có người lại gọi tôi là Charlot vì bộ râu của tôi). Rất tiếc đã quấy rầy bạn quá sớm, bạn cho một phi tuần cất cánh ngay. Chi tiết nhận sau trên tần số Phong Giao.
—     OK. Rõ.
Tôi đánh thức Võ Nguyên Bá, người được mệnh danh “sát quân.” Các bạn đều sợ bay chung với Bá, và họ có lý do chính đáng. Sau Phi vụ trở về một mình, để lại xác người “wing man” trên trận địa, Bá đã dẫn hai wing men khác bay close formation đâm đầu vào núi chết không còn tìm thấy chút thịt da. Bá thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, bay trở về Biên Hòa, phi cơ hết xăng, rớt ngoài đầu phi đạo trong một buổi chiều giông gió cuồng loạn. Phi đoàn chuyển Bá qua Phi đội bay Test, vì mọi người đều từ chối bay chung với Bá. Trận chiến càng ngày càng ác liệt, sự thiếu hụt phi công trở nên trầm trọng. Tôi tình nguyện dẫn Bá đi, tôi tự tin và tôi muốn giúp Bá vượt qua cơn khủng hoảng tinh thần.
Chúng tôi chạy vội ra phi cơ, giầy chưa kịp cột giây, áo bay còn banh ngực. Tôi quơ vội tay trên mặt cockpit lấy ít sương sớm rửa mặt cho tỉnh táo. Không còn bị ràng buộc bởi qui tắc an phi trong giờ phút khẩn cấp, phi cơ phóng nhanh trên taxi way, vừa quẹo vào runway, phi cơ gần đạt tốc độ cất cánh. Tôi nhận đủ các chi tiết khi vừa nghiêng cánh chào phi trường, phi cơ quan sát chưa cất cánh kịp. Vị trí đặt súng pháo kích im tiếng đã lâu. Công tác chuyển sang đánh sập ba chiếc cầu có tên Ba Ngòi ở Cam Ranh để chận đường tiến quân của Việt Cộng. Nha Trang thất thủ hai ngày trước và Việt Cộng chuẩn bị đánh Phan Rang. Thật lạ lùng, ngay chính những nhà khí tượng chuyên nghiệp cũng ngạc nhiên vì sự chuyển biến thời tiết quá đột ngột. Mây mù giăng khắp bầu trời làm trở ngại hoạt động Không Quân, những người duy linh nghĩ rằng Trời buồn và khóc cho số phận Nhân dân miền Nam.
Riêng tôi, tôi khẳng định, Việt Cộng đang sử dụng vũ khí hóa học để làm mây nhân tạo, thay đổi thời tiết. Chúng tôi bay trên những tầng mây trùng điệp chờ phi cơ L.19. Tôi bực mình nghe câu báo cáo đầu tiên:
—     Phòng không kinh khủng quá.
Tôi buột miệng chửi thề không cưỡng được:
—     Đù mẹ, các chú lạnh cẳng sớm thế.
Tôi ra lệnh cho Bá bay cover tại chỗ, rồi trượt cánh xuyên mây xuống thẳng vị trí báo cáo có nhiều phòng không. “Bay trên ngọn cỏ, dưới ngọn cây” là sở trường của tôi. Tôi làm hai low passes trên phi đạo Cam Ranh, nơi được chiếc L19 ghi nhận hiểm nghèo nhất.
— Đâu? Phòng không đâu? Bạn thấy tôi không? Ráng bình tĩnh chút xíu chứ!
Và để trừng phạt, tôi tống hết ga, bất thình lình chui từ dưới bụng chiếc L19 phóng vụt qua mặt, để hai ông phản lực với một luồng turbulance dữ dội cách windshield chừng vài thước. Trò đùa giỡn này tuyệt đối cấm vì có thể làm phi cơ bạn bị stall, một tai nạn nguy hiểm. Tôi bắt đầu trở về mục tiêu, chuẩn bị đánh bom, ra lệnh cho Bá tiếp tục ở chờ trên mây vì nếu bắt Bá xuống dưới trần mây 1,500 feet đánh bom là một điều đau khổ nhất cho Bá. Những hình ảnh chết chóc thê thảm đã đóng một dâu ấn quá sâu đậm vào đầu óc Bá, trong cặp mắt Bá, nỗi kinh hoàng vẫn còn phảng phất chưa nguôi. Sau khi đánh xong, tôi sẽ cho Bá xuống làm một pass, thế là ổn.
Đồng bào di tản chạy quá đông trên đường, trên cầu, tôi không thể vô trách nhiệm đánh bừa để gây thiệt hại cho dân chúng. Tôi làm low pass đầu tiên 50 feet để báo hiệu, tiếp tục đến low pass thứ ba mọi người mới hoàn toàn tránh xa khỏi mục tiêu. Một số phòng không 12 ly 7, 23 ly, 37 ly bắn rải rác đầy đó, tôi chẳng quan tâm vì tôi biết rõ khả năng và tinh thần của pháo thủ cao xạ Việt Cộng: Những xích sắt khóa chân không thể nâng cao được tài nghệ và sự can đảm.
Tôi lấy cao độ để biểu diễn một pha ngoạn mục đầu tiên. Thật hoàn toàn bất ngờ, tiếng nổ tàn bạo dữ dội của một trái hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 đã cắt đứt đôi phi cơ tại ống thoát phản lực. Phần thân và đuôi tan nát rơi lả tả như những chiếc lá vàng, Cockpit quay cuồng lồng lộn, những đụn khói và tiếng réo sôi giận dữ của lửa, một lực G quá lớn dán chặt thân thể tôi vào ghế ngồi. Tôi dồn hết tàn lực di chuyển bàn tay phải về chiếc cò bấm nhảy dù hình chữ D đặt dưới cạnh bàn chân. Như một lực sĩ vất vả cố ép một lò xo quá cứng ngoài khả năng mình, tôi chuyển động bàn tay. Sức nóng của trận bão lửa đã kích thích hỏa pháo trong hệ thống ghế nhảy dù tự động, đã phóng tôi ra ngoài. Chưa kịp cảm giác được lực 12 G phóng ghế lái, và sức xô bật ra khỏi ghế, bỗng nhiên tôi thấy mình lơ lửng, đong đưa giữa trời, trong tiếng gào rú của trận cuồng phong.
Đàng xa, mặt biển thấp thoáng bạt ngàn. Chưa kịp điều chỉnh thân người sau bốn, năm lượt đưa võng, tôi đáp nguyên cả cạnh sườn phải xuống bờ nấm mộ rất lớn có tên Mã Tướng vì nhảy dù ở cao độ quá thấp. Vội vã luồn tay chân ra khỏi các sợi dây an toàn thay vì mở khóa, tôi bắt đầu chạy về hướng an toàn rậm rạp. Trên đường chạy, bỗng nhiên tôi liên tưởng đến Alain Delon, đến Charles Bronson, tôi mường tượng thấy họ đang chạy trốn trong các đoạn phim săn đuổi hồi hộp. Tôi cảm thấy mình chạy khác kỹ thuật đóng phim của họ, tôi có cần phải khom mình về phía trước, trán nhăn xếp, hằn vết suy tư, mắt đảo ngược xuôi để quan sát tình hình? Tôi chợt mỉm cười vì sự so sánh liên tưởng, và vì ý nghĩ khôi hài của mình. Tôi vẫn giữ cái dáng chạy lòng khòng của mình, đóng một phim sống về cuộc trốn chạy theo kiểu riêng của mình, hoàn toàn thoải mái và hào hứng. Tôi chui vào đám rừng mía dầy đặc, nằm xuống, lười biếng nhàn nhã cắn từng khúc mía ngọt ngào. Take it easy, man! Tôi lẩm bẩm một mình, tôi nghỉ dưỡng sức và nghe ngóng tình hình. Bỗng có tiếng gọi nhỏ, vừa khẩn trương, vừa thân thiết:
—     Anh Phi công ơi! Anh mới đây đâu rồi?
Tôi len lén và nhẹ nhàng bò sâu vào phía trong, rủa thầm:
—     Bố mày! Bao nhiêu năm xông pha lửa đạn, ông kinh nghiệm đầy mình. Ông đâu phải là con nít mà mày dụ kiểu đó!
Tôi cứ ngờ là Việt Cộng giả dạng. Tiếng người gọi xa dần và mất hút. Bỗng một chiếc trực thăng từ Phan Rang xuất hiện, bay về hướng tôi và đảo nhiều vòng quan sát. Đến giờ phút này, tôi mới thấm nỗi đau của những kẻ hời hợt với sự an toàn của bản thân mình. Biết bao nhiêu lần tôi bị Thiếu Tá Nguyễn Tiến Xương, Trưởng phòng An Phi, cằn nhằn vì không chịu mang áo lưới. Tôi còn coi thường không thèm lãnh cả súng P38 khi đổi về Phan Rang và tự biện hộ:
—    Ông thề sẽ chẳng bao giờ nhảy dù. Nếu chúng mày bắn đứt cánh, ông sẽ biểu diễn bay bằng một cánh trở về phi trường đáp đẹp!
Tôi ỷ vào cái thiên tài bay bổng của mình. Và giờ nầy! Ước gì chỉ cần có một trái khói, không cần flare, kính hiệu hay radio, tôi đã thừa phương tiện để đánh dấu vị trí của mình. Người bạn trực thăng thật tận tụy nhưng cuối cùng đành quay trở về vì không tìm thấy dâu vết tôi, hơn nữa, phòng không địch đang quăng những mẻ lưới lửa lớn vây bắt con chim lạc loài. Tôi đưa tay lên trời, vẫy chào buồn bã:
—    Thôi từ giã. Bạn yêu dấu!
Xuyên qua những cụm khói tử thần, tôi lẳng lặng nhìn theo cánh chim bạn đến khi mất hút ở phương trời Phan Rang thân thương. Niềm hy vọng cuối cùng đã tan vỡ, tôi biết rằng, từ giờ phút nầy, tôi chỉ còn một mình với những hiểm nguy chồng chất. Tôi lom khom đứng dậy quan sát địa thế. Tôi đang ở giữa lưng chừng đồi thoai thoải và dưới kia là Quốc lộ nhộn nhịp đông người tranh nhau chạy loạn. Tôi nhớ đến bài học thoát hiểm đầu tiên: “Quốc lộ là hướng an toàn nhất cho những phi công bị nạn.”
Tôi vạch kế hoạch đi len lỏi giữa các bụi mía để đến gần đường rầy xe lửa, băng qua một quãng đồng trống trải và tiến về một chòi nhỏ đầu tiên nằm lẻ loi tách biệt khỏi khu xóm nhà lúc nhúc. Lại có thêm một điều để tiếc nuối. Ôi cuộc đời cứ thế mà tiếp tục để mỗi ngày ta lại khám phá ra một điều mới để tiếc nuối! Ước gì tôi có một cái quần sọt và một cái áo thun. Tôi thuộc loại người đơn giản hóa, trong chiếc áo bay đầy phù hiệu lộng lẫy hoa hòe mà chắc chắn những thiếu nữ mộng mơ đã dệt bao nhiêu huyền thoại, bao mối cảm tình thầm lặng đắm say, vâng! ở trong đó, dưới chiếc áo bay lập dị đó, tôi chỉ dành một ân sũng duy nhất cho chiếc mini xì líp được phép đèo bồng và sáng nay, lúc vội vã, tôi còn bỏ quên người bạn bé nhỏ đó! Không thể tồng ngồng đi giữa thanh thiên bạch nhật, tôi đành phải mặc bộ đồ bay đặc biệt và trở thành mục tiêu lồ lộ cho những cặp mắt rình rập theo đuổi. Người đầu tiên khám phá ra tôi, làm phiền tôi, không phải là Việt Cộng mà là các em nhỏ, bắt đầu một đứa, hai đứa, và sau đó, cả đám hội con nít chạy theo tôi reo hò: “Hoan hô anh Phi công!”
Chẳng thể nào ngăn cản được sự nồng nhiệt của các em, tôi chịu đựng sự ngưỡng mộ trong niềm hạnh phúc khốn khổ! Tôi đã lách được vào cái chòi dự trù, chớp được chiếc áo mưa tròng vào để giả dạng nhưng quá trễ! Một họng súng đã chĩa vào lưng và một tiếng quát lớn:
—     Đưa tay lên!
Nguời bắt tôi là một anh du kích già, tuy vẫn còn gân guốc, nếu là bây giờ chắc tôi đã vặn cổ anh ta trong chớp mắt. Tôi quay lại và bị đánh một báng súng vào cằm. Chưa từng có Phi công nào sống sót sau khi lãnh nguyên một trái hỏa tiễn SA7, thế mà tôi xuống đất an toàn không rụng một sợi lông, giờ đây, lại chính anh già du kích làm tôi rơm rớm máu. Có tiếng phản đối của dân chúng khi họ bắt đầu tụ tập lại khá đông:
—     Làm gì đánh người ta!
Lại có tiếng thì thầm:
—     Hồi nãy em đi kiếm anh, kêu anh quá trời anh nghe thấy không? Vừa thấy anh, chạy tới, là anh biến mất. Nếu gặp, giờ nầy em đã đưa anh đi trốn tới đâu rồi!
Tôi lẳng lặng nghe và lẳng lặng đau đớn. Lần đầu tiên trong đời mình, tôi không tin người và nhận một hậu quả trầm trọng. Tôi đã phải trả một giá đắt cho một kinh nghiệm sống bằng sáu năm tù tội. Trong tù, tôi bắt đầu làm quen với ngôn ngữ Cộng Sản, cách sử dụng từ ngữ, cách biểu lộ ý nghĩ. Ôi! Làm sao Việt Cộng lại có được tiếng kêu tha thiết, ngọt ngào kia dù là một diễn viên thượng thặng trên sân khấu!
Tôi bị dẫn ra đường quốc lộ, vẫn một mình anh du kích già lẽo đẽo theo sau. Tôi bỗng phóng chạy khi thấy một chiếc xe lam chở đồ đạc tiến gần nhưng chụp hụt thành xe vì quá trễ. Một chiếc Honda dame vừa tới nhưng tiếc thay lốp xe sau bị xẹp! Tay du kích già bắt kịp, hăm dọa:
— Nếu chạy nữa, tôi sẽ bắn.
Cũng vừa lúc chiếc xe Dodge ngụy trang có nhiệm vụ lùng kiếm tôi vừa tới. Họ bàn giao và tôi bị trói dẫn lên xe. Bầu trời bỗng náo động vì nhiều phi cơ A37 xuất hiện. Các chiến hữu đang đi trả thù cho tôi, kẻ được báo cáo và tin tưởng đã chết. Những trái bom bắt đầu rơi vung vãi khắp nơi. Tôi ngạc nhiên thấy phi cơ tấn công cả những chiếc tàu thả neo ngoài biển xa và gần nhất, bom đang rớt trên đầu tôi. Bộ đội trên xe vội nhảy xuống núp vào hố cá nhân cạnh những gốc dừa. Tôi đứng “tương tư” giữa trời, nhìn những cánh chim thân yêu. Một Phi công được chết dưới những trái bom bè bạn mình chắc thú vị hơn chết trong tay kẻ thù. Tiếng mảnh bom xé ngang tai, vài đọt dừa trước mặt bị tiện đứt, đổ xuống. Một tên Việt Cộng chạy ra, chộp tay kéo tôi vào nơi trú ẩn. Tôi đi lừng khừng ngắm nhìn trận địa pháo nhả đạn và biết vì sao sáng nay tôi không khám phá ra họ. Điều rõ ràng là họ đang thiếu đạn kinh khủng. Cuộc tiến công quá dễ dàng, quá nhanh đã làm cho bộ phận tiếp tế không đáp ứng kịp. Tôi quan sát cách họ bắn máy bay để thấy rằng “bắt chim trời cá biển” không phải là chuyện dễ. Chỉ có hỏa tiễn tầm nhiệt là đáng ngại vì nó quá hiện đại còn khả năng con người, nhất là con người Cộng Sản, thì hạn hẹp quá. Cuối cùng là tỉ số 0-0. Huề. Những trái bom chỉ phạt đứt một số cây dừa, những quả đạn phòng không chỉ góp thêm một tí bụi ô nhiễm vào không khí.
Cuộc tranh cãi bắt đầu gay gắt, các loại pháo phòng không đang tranh công với nhau, anh 12 ly 7 khẳng định đã bắn rơi Lý Tống, anh 23 ly, 37 ly cực lực bảo vệ chiến công mình. Tôi cười thầm nghĩ đến xạ thủ SA7 nằm lăn lóc trên sườn đồi, anh ta sẽ điên tiết khi chiến công mình bị các pháo bạn tranh giành cấu xé. Tôi nghĩ đến đoạn đấu khẩu trong cuốn truyện Vùng Trời viết về Không Quân Bắc Việt do Hà Nội xuất bản, trong đó Thủ trưởng Pháo Binh nói đùa với Thủ trưởng Không Quân:
— Nếu một ngày nào biển Đông cạn, tất cả chúng ta đều vào tù ráo!
Vâng! Không có gì dễ bằng báo cáo đã hạ được nhiều phi cơ địch, và tất cả đều rơi xuống biển Đông! Trên đường đi có vài tên bộ đội hỗn láo bắt tôi cúi mặt xuống vì chúng không chịu được bản mặt nghênh nghênh kênh kiệu của tôi. Tôi quắc mắt trừng các chú bé, tên lính áp giải kịp thời hòa giải mọi xung đột. Chúng dẫn tôi ra đường, tập họp dân chúng để lập Tòa án Nhân dân.
Chúng đã từng thành công với loại luật rừng nầy: Một Nguyễn Du, Thiếu tá Phi công anh hùng Vùng I, chiếc đầu được treo giá bạc triệu, bị bắn rơi và bị ném đá đến chết; Phi công danh tiếng Trần Thế Vinh, người bạn cùng khóa 65A Không Quân với tôi và biết bao nhiêu người đã đi vào huyền sử. Nhưng rõ ràng, lịch sử không được lập lại tại đây, nơi thành phố duyên hải đầy thân thuộc nầy. Khu giải trí Cây số 9 đâu có ai lạ mặt tôi, họ thương cảm tôi, một khách chơi quen, hào phóng đang lâm nạn, một chiến sĩ đang bị sa cơ. Những tên cò mồi lăng xăng chạy đi chạy lại hò hét, khích động nhưng chẳng ai thèm hưởng ứng. Cuốỉ cùng chúng chỉ thành công trong một cuộc dàn cảnh. Vài tên nhảy vào đè tôi xuông, xỉa xói, chửi bới. Lúc đầu, tôi nhẫn nhục để làm nổi bật sự tàn bạo dã man của Cộng Sản nhưng nửa chừng đổi ý, vùng đứng dậy, quắc mắt nhìn chúng và nhổ nước miếng vào mặt tên đạo diễn thô bỉ. Khán giả khoái chí cười ồ, vì thế, thay vì ném đá tôi, họ lại ném thuốc lá, bánh ngọt và các loại quà khác.
Tôi được chở lên đèo Rù Rì, trời nửa đêm sương mù lạnh lẽo. Tầm nhìn xa không quá mười thước, tên tài xế mới ra nghề, chạy xe dục dặc như ho gà. Tôi tính lừa thế đánh cái đầu vào mặt tên ngồi bên cạnh, đứng dậy dứt một đá vào cổ tên tài xế trước mặt là xong. Thật dễ dàng trên một chiếc xe jeep mui trần, nhưng xe bỗng ngừng ở một trạm gác. Tôi ngồi ngoài xe giữa đêm sương giá, núi rừng âm u tăm tối đang chứa đựng một âm mưu sâu hiểm. Về sau, tôi được biết đó là buổi họp quan trọng, một phe muốn xử bắn tôi ngay đêm đó tại trên đèo, vì không moi được chút tin tức nào trong suốt những cuộc thẩm vấn dọc đường, một phe muốn kiên trì thuyết phục. Cuối cùng tôi được chuyển đến Trại Chi Lăng là nơi an dưỡng tạm thời của Việt Cộng. Lần đầu tiên tôi thấy được sự tác hại của các loại bom napalm và bom bi vì chất cháy lân tinh và các viên đạn nhỏ không chừa một hố nấp cá nhân nào trong tầm sát hại của nó. Tại đây, một Thủ trưởng Đặc Công và một Thủ trưởng Pháo Binh thay phiên nhau thẩm vấn, hứa hẹn và dụ dỗ tôi vẽ bản đồ phi trường Phan Rang:
—Anh sẽ được tha chết và được sử dụng phục vụ Không Quân Cách Mạng.
Tôi cương quyết từ chối:
—     Một mạng sống của Lý Tống không thể đánh đổi với hàng trăm, hàng ngàn mạng của các chiến sĩ đang tử thủ trên tuyến đầu giữ nước. Xin lỗi các ông, tôi không phải là loại người tham sinh úy tử để làm một hành động phản bội ngu xuẩn như vậy!
Họ lại kiên trì đưa đề nghị khác:
—     Nếu anh lên đài phát thanh, kêu gọi chiến hữu của anh đầu hàng, nhấn mạnh rằng Cách Mạng sẽ rộng lượng khoan hồng đối với tất cả ai trở về hàng ngũ dân tộc, nhấn mạnh Chính sách Đại Đoàn kết, Chính sách Nhân đạo của Cách Mạng…
Tôi ngắt lời:
—     Thưa ông, có những con vật khi bị mắc bẫy còn biết đánh tín hiệu để báo cho đồng loại tránh xa nơi đánh bẫy. Là con người, không lẽ tôi lại thua loài vật, dẫn dụ bè bạn, chiến hữu vào cái bẫy nhân đạo, hòa hợp giả hiệu của các ông sao ?
Tôi chuẩn bị để chết. Nhưng số phận vẫn bắt tôi sống. Và tôi vẫn thích được mang chữ “cố,” cố Đại úy Phi công, bởi vì kỷ niệm của Phi vụ cuối cùng.
Bắt  Đầu Cuộc Đời Tù Binh
Tôi được chuyển về Suối Dầu. Những tay tội phạm và du đãng Nha Trang như “Tới đen, Thi bản đồ” đều rủ rê tôi vượt nhà giam. Tôi quyết định ở lại với lý do: Tôi cần tìm hiểu Chủ nghĩa Cộng Sản. Bao năm trời chiến đâu chống Cộng, tôi chỉ biết về Cộng Sản qua các bài thuyết trình của Khối Chiến Tranh Chính Trị, hoặc thấy Cộng Sản bằng hàng thây ma la liệt dưới những trái bom tàn phá dữ dội của mình. Trừ lần gặp vài tên Việt Cộng tại Bến Cát cách hơn mười năm chưa cho tôi một khái niệm nào về Cộng Sản. Tôi muốn biết rõ bộ mặt thật của Cộng Sản. Không như một số tù binh bạn tuy thù Cộng Sản nhưng họ thề không động đến một cuốn sách nào của Cộng Sản, tôi quyết tâm sẽ ngấu nghiến kỹ lưỡng hầu hết sách thư viện có được. Phải nghiên cứu ưu khuyết điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dùng Chủ nghĩa Cộng Sản để đả kích đệ tử của Bác và Đảng.
Tôi ngồi lặng lẽ nhìn hàng loạt người chui qua lỗ cửa sổ song sắt vừa bị bẻ gãy. Phải tự đấu tranh giữ vững lập trường tôi mới ngồi yên được, vì tiếng gọi tự do đang vang dội ngoài kia, và cuộc trốn chạy thập phần dễ dãi. Cuộc đào tẩu quá nhộn nhịp, ồn ào nên người thứ 21 bị phát giác, tất cả đều chạy thoát an toàn.
Tôi lại bị chuyển Trại. Tại đây có âm mưu “Hổ,” vượt ngục bằng cách đào sâu xuống nền nhà, xuyên qua vườn ra ngoài hàng rào. Tôi vẫn từ chối không tham gia vì tổ chức quá lộ liễu, các phòng bên cạnh quá vội vã, nên phòng chính thức của tôi chưa đào xong, họ đã đào xuyên qua tường sang ngồi đợi. Âm mưu bị bại lộ nên công tác canh gác được tăng cường tối đa. Một đêm, một tay du đãng có tiếng là “Hồng thúi” vừa bị bắt nhốt trong lúc đang phê xì ke chỉ vì đập cửa làm ồn, y bị một tên Thượng Cộng dí súng ngay vào đầu, bắn vỡ sọ chết tại chỗ.
Tôi lại bị đưa về Quân lao Nha Trang. Một đêm tôi bị bịt mắt, còng tay chở xe chạy ra bờ biển Nha Trang cùng hai người khác. Chúng tôi rỉ tai nhau: “Chắc đi mò tôm quá!” Bao nhiêu người đã được đưa ra bờ biển, một bao bố, một cục đá lớn và một con người: cột lại, ném xuống biển. Thật dễ dàng, chẳng hề tốn một viên đạn. Cộng Sản quí và tiết kiệm đạn, một viên đạn giá tương đương 3 kg củ mì, đập một cán cuốc, đánh một bá súng vào đầu, nhanh, kín, chẳng tốn kém. Đại úy Trưng ngồi bên cạnh lâm râm cầu nguyện. Cuối cùng chúng tôi bị đem nhốt vào xà lim của Nha Cảnh Sát Đặc Biệt cũ. Ban đêm, phòng hẹp lại không có đèn, mò mẫm chung quanh chỉ thấy cứt khô vung vãi, tôi cởi quần thế chổi quét tạm, ngả mình đánh một giấc thoải mái.
Xà lim thời trước chỉ nhốt một người, thời hạn tối đa là ba ngày, bây giờ chúng tôi hai người, kẻ nằm xuôi, người nằm ngược, chật như nêm, và nằm cả hàng tháng trời. Có nhũng ngày nhà cầu bị nghẹt, nước ngập gần tới chỗ nằm, đủ các loại phẩn cục cứng hoặc bầy nhầy nhão nhẹt… nổi lều bều, thối và ngột ngạt đến chóng mặt. Thế mà Cao Kỳ Sơn vẫn hát nhạc Trịnh Công Sơn, bố già Đại Tá Như vẫn đốt lốp cao su nấu cà phê khói. Có những tay cai ngục lóc nhóc khoảng 15 tuổi, có những mụ Cán bộ mập úc núc như bao gạo chỉ xanh vì bị phù thủng, bắt chúng tôi phải xưng hô: Thưa Ông, Thưa Bà. Cũng chính tại đây, tiếng xe tăng T54 hàng ngày ào ạt tiến về Nam, nghiền nát tâm sự ngổn ngang của nhũng con người thất thế. Tin Sàigòn thất thủ làm chúng tôi ngỡ ngàng, thất vọng. Thế là hết!
Trại Tù Lam Sơn
Lại di chuyển đến trại tù Lam Sơn. Lần đầu tiên sau nhiều tháng tôi được thấy nhà cửa, cây cảnh chung quanh mình và được đi lại trong một phạm vi rộng rãi. Những nắm cơm vừa sống vừa khê, vừa mốc, đầy cát, mỗi ngày được ném vào xà lim, những ngụm nước uống hạn chế, đổ vội, hắt qua lỗ cửa sắt nhỏ, vung vãi trên mặt mũi và thân người của xà lim Nha Trang đã gây ấn tượng hạnh phúc cho nơi tù đày mới. Chính sách của Cộng Sản khôn ngoan, quỉ quyệt. Họ không đẩy kẻ thù xuống địa ngục ngay, sợ rằng sự tuyệt vọng và phẫn nộ của tập thể tù binh đông đảo có thể gây nên những phản ứng bất lợi, những cuộc bạo động liều lĩnh. Họ hé cửa địa ngục cho thấy sự kinh hoàng, rồi đóng lại để đe dọa. Họ nới một chút cho nạn nhân hy vọng, rồi bóp lại từ từ. Cái bàn tay bóp cổ nhuần nhuyễn đến nỗi nạn nhân đã tắt thở mà vẫn tưởng mình còn thoi thóp. Nhà tù ngoài cái cùm, cái ách của kẻ thù đè nặng trên đầu, trên cổ, tù binh còn mang cái ách do bọn phản bội, bọn ăng ten tạo ra. Những tư tưởng tiêu cực bạc nhược của những con người tham sống sợ chết, vị kỷ cá nhân đã làm cho không khí u ám của địa ngục trần gian tăm tối bi thảm thêm.
Như một Sơn khói, hình ảnh phản bội đáng ghê tởm nhất và cũng là một biểu tượng tượng trưng nhất về những thủ đoạn gian ác của Cộng Sản trong kế hoạch chia để trị. Sơn khói đã gài bẫy đưa bạn mình đi trốn trại cho vệ binh bắn chết tại Lam Sơn, và báo cáo với ác ý làm cho một tù binh khác bị siết cổ chết tại trại tù 53.
Với ăng ten Hoàng, tên thường dọa tù binh bạn bằng câu tuyên bố: Sau lưng tôi có Bác và Đảng, ai chống tôi tức chống Bác, chống Đảng, chống nhân dân… Tôi đã dùng bài bản đã học được để ca ngợi Bác và Đảng trong một buổi học tập quan trọng, tiếp đến “móc lò”: Bác và Đảng là cái gì linh thiêng, tối cao… nhưng tiếc thay lại chỉ đứng sau lưng, sau đít của Trại Trưởng kiêm Nhà Trưởng Hoàng mà thôi. Thế là Hoàng bị hạ bệ và suýt bị ăn đòn.
Với một Đãi già, kẻ chủ trương thuyết Hàn Tín luồn trổn gây tinh thần đầu hàng, hèn nhát cho những người thiếu kiên trì, can đảm, tôi đã chửi xéo:
—     Tôi rất phục, rất ngưỡng mộ cái phong thái Hàn Tín của anh. Anh đóng vai Hàn Tín còn xuất sắc hơn cả Hàn Tín. Hàn Tín chỉ luồn trôn một người, còn anh, anh luồn trôn hết những thằng mọi Cộng Sản. Tiếc rằng suốt đời, anh chỉ giống Hàn Tín giai đoạn luồn trôn, còn giai đoạn Hàn Tín làm anh hùng, chẳng bao giờ anh giống được.
Cộng Sản là một loại từ-ngữ-chủ-nghĩa. Họ sáng tạo đủ loại từ mới, áp đặt và cưỡng bức ngôn ngữ theo mục đích của họ. Với Mỹ, họ dùng chữ đế quốc xâm lược, với các nước xã hội chủ nghĩa, họ dùng chữ lớn mạnh. Nhà tù lại gọi Trại học tập cải tạo, tù binh gọi là học viên. Người dân tìm cách chống đối và giải trí qua các mẩu chuyện phiếm, tiếu lâm về các anh cán ngố về thành phố, hoặc chơi trò đảo ngược chữ để chơi xỏ. Chẳng hạn Trường xây đời mới đảo ngược thành Trầy xương đời mới, hoặc Hồ Chí Minh thành Hồ Chính Mi, chính mi đã gây bao nhiêu thảm cảnh, như một bộ đội trong cơn tức giận điên cuồng đã chỉ vào ảnh Hồ Chí Minh lên án, khi sáu anh em anh ta đều bị nhà nước bắt ra chiến trường để trở thành tử sĩ, và riêng cá nhân anh cũng thành liệt sĩ (bị trúng bom bại liệt không còn đi được).
Lần đầu tiên làm bản khai lý lịch, trong phần địa chỉ trở về khi được phóng thích, tôi đã khai: “Số 1 Mạc Đỉnh Chi.” Sau khi nghiên cứu hồ sơ và được biết số 1 Mạc Đỉnh Chi là Nghĩa Trang Qưân Đội ngay giữa thành phố Sài Gòn, tên Phó trưởng trại đã kêu tôi lên trình diện để khiển trách:
—     Anh dám giỡn mặt, coi thường Cách Mạng hả? Tại sao anh
khai địa chỉ tại nghĩa trang quân đội ngụy?
— Thưa cán bộ. Tôi nghĩ rằng ở tù kiểu nầy thì khi được phóng thích chỉ còn có nước đem đi chôn, chứ làm gì còn sống nổi để trở về nhà!
Đã hiểu được Cộng Sản, hiểu cái học thuyết sai nhầm từ căn bản bởi vì Cộng Sản tiêu diệt quyền sở hữu cá nhân, bởi vì muốn xây dựng Chủ nghĩa Cộng Sản, con người Cộng Sản bắt buộc phải đạt được một số đặc tính đạo đức cách mạng mà chỉ có những bậc thánh mới hội đủ, và thật sự nếu mọi người đều đạt được cái đạo đức cách mạng đó, thì thế giới chẳng cần một chế độ xã hội hoặc một chủ thuyết chính trị nào nữa cả.
Thấy được cái tính chất khôi hài của hai học thuyết đối nghịch: Chủ nghĩa Duy vật lại thường nhân danh lý tưởng và đạo đức để kềm chế con người, còn dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa Duy tám, những sinh hoạt xã hội lại kích thích con người sống thiên về vật chất và hưởng thụ; hiểu rõ những Cán bộ Cộng Sản, những con vẹt học nói, mà từ người lãnh đạo đến anh nông dân dốt nát đều có cùng trình độ ăn nói và nhận thức thuộc lòng giống nhau, sự nghèo nàn và cằn cỗi của trí tuệ mà những bài diễn văn từ những khoảng cách thời gian hằng chục năm vẫn không hề có một tư tưởng mới lạ, “Chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là một đứa con tật nguyền của Chủ nghĩa Tư bản,” tôi nhận định và quyết định trốn thoát trại tù Cộng Sản để trở về chiến tuyến đấu tranh của mình.
Vượt Ngục Trại Tù Lam Sơn
Ý nghĩ vượt ngục càng thôi thúc hơn vì một biến cố mới xảy ra. Hoàng, sau khi bị tôi chơi khăm để hạ bệ, lại còn bị tôi nguyền rủa: “Đồ chó đẻ, mầy độc ác còn hơn những tên cai ngục Việt Cộng,” bèn đặt chuyện, mật báo lên Bộ Chỉ huy trại để tìm cách hại tôi. Buổi sáng hôm sau, hai tên vệ binh trang bị súng ống chạy sồng sộc vào chỗ tôi ở, trói tay tôi, chĩa súng vào lưng dẫn độ đi giữa cặp mát ngỡ ngàng hoảng hốt của các bạn đồng tù. Trên đường đến phòng thẩm vấn, tôi bất chợt chứng kiến một cảnh khủng khiếp. Đó là buổi thăm nuôi bỏ túi, trong đó vợ con tù binh đứng chen chúc ngoài hàng rào kẽm, và bên trong tù binh sắp hàng một để được gọi tên. Một người bạn tù chợt nhận ra được vợ con mình sau nhiều ngày xa cách, mừng rỡ quá bèn gọi lớn tên và vẫy tay rối rít. Trong cơn xúc động, anh ta đã bước lệch ra khỏi hàng như kẻ mộng du không nghe tiếng quát tháo của tên Cán bộ hướng dẫn. Một loạt súng nổ và người tù ngã gục sóng soài trước những cặp mắt kinh hoàng của vợ con. Thấy cái chết bất ngờ của một người bạn vì lý do thật tầm thường, tôi chợt hồi hộp lo lắng về số phận mình. Tôi tưởng tượng mình đang đi về pháp trường và “đùng, đùng,” tôi gục xuống sau loạt đạn và thế là hết. Nhưng thật may, cái chết của người bạn tù đã thu hút tâm trí của các tên phụ trách điều tra hoàn toàn, họ bận bịu lo giải quyết chuyện xảy ra đột ngột, nên khi bị dẫn vào, tôi chỉ nhận được một tiếng quát đe dọa:
— Mầy còn cứng đầu, có ngày ông sẽ vặn gãy cổ mầy. Coi thằng kia mà làm gương.
Nói xong, y mở trói và đuổi tôi đi về.
Ngày 7 tháng 10 năm 1975, tôi và Kiên, Trung úy Pháo Binh gặp nhau tại điểm hẹn, nơi chúng tôi đã tập trung những đồ dùng cần thiết được chuyển dần ra hàng ngày, để bắt đầu cuộc trốn chạy khỏi nhà tù Cộng Sản. Chúng tôi lẩn tránh đám quản chế dẫn tù binh đi làm, băng rừng đi về hướng đèo Phượng Hoàng. Càng lúc tôi càng chiếm dần quyền quyết định mặc dù trong kế hoạch, Kiên chịu trách nhiệm dẫn đường. Tôi hủy bỏ ý đồ leo qua ngọn núi có thác nước, mà mỗi chiều đi làm về, từ trại tù Lam Sơn, chúng tôi vẫn thường ngắm nhìn như một bức tranh đẹp và là điểm chuẩn để định hướng trốn trại. Những khối đá cheo leo dốc đứng, có nơi phải mất nửa giờ chưa đi được hai mươi thước đường dốc. Viên thuốc uống ngừa sốt rét làm mặt Kiên đỏ nhừ, đầu choáng váng muốn bệnh. Kiên đã nản lòng vì thể lực yếu và đoạn đường đầy chướng ngại vật. Sau khi băng qua nhiều đám rừng khá vất vả, tôi quyết định rẽ về hướng một con suối để nghỉ chân, dùng mùng lưới ni lông bắt cá lòng tong ăn sống và ngủ lại qua đêm. Chiếc võng quá cũ trăn trở dưới lưng như muốn rách toẹt vì sức nặng. Hai đứa treo võng nằm sát nhau, mệt mỏi không đủ sức để nói chuyện, chuyền qua lại điếu thuốc rê đắng nghét, chịu đựng cơn lạnh về đêm của núi rừng.
Sáng hôm sau, chúng tôi băng qua những trảng tranh rộng, cao ngập đầu người, ra đường đón xe. Xe bộ đội nhộn nhịp qua lại, dịch vụ bán xăng nhớt lậu công khai trên đèo của giới tài xế nhà binh làm chúng tôi vỡ mộng về những lời đồn đãi: Đèo Phượng Hoàng do quân Kháng chiến kiểm soát một phần. Sau khi bị nhiều xe qua mặt từ chối không cho quá giang, chúng tôi được một người chạy xe Honda chở nhờ lên đèo, chỗ chiếc xe hàng chở gạo đang bị hư và đang sửa, để xin đi nhờ lên Ban Mê Thuột. Xe chạy giữa đèo, hai bên đồi núi trùng trùng điệp điệp. Tưởng tượng kế hoạch đi bộ băng rừng của Kiên, tôi chợt bất giác rùng mình kinh hãi. Trong những đãy rừng núi hun hút bạt ngàn kia, chúng tôi sẽ trở thành gì nếu không phải là những bộ xương khô vất vưởng đói khát. Mặc dù thất vọng về tình hình đèo Phượng Hoàng cũng như khả năng đẫn đường của Kiên, tôi vẫn cương quyết đi về hướng dự định,
Tại Ban Mê Thuột có tin đồn Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Ngô Quang Trưởng đã rời Mỹ trở về lập chiến khu. Huyền thoại! Có ai mơ mộng như tù binh chúng tôi, nếu không có những tin bịa đặt như vậy và tin tưởng như vậy, làm sao chúng tôi có thể sống và chịu đựng những ngày tháng đày đọa miên viễn, không có một chút hy vọng ở ngày mai. Những buổi chiều chuyển mùa, tiếng sấm đất nổ rền âm vang từng loạt dài, chúng tôi vẫn ngỡ là tiếng B52 đang rải thảm. Có khi ở gần những bãi tập bắn, chúng tôi vẫn ngỡ và đồn đãi là đang có giao tranh. Nếu biết rõ các ông Tướng, ông Tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang đầu tắt mặt tối với cuộc mưu sinh ở Mỹ, chắc chắn tâm trạng của người tù sẽ khốn khổ biết bao. Người trong nước hy vọng người ngoài nước, người ngoài nước trông chờ người trong nước! Đó là lý do vì sao đã hàng chục năm, mặc dù bạo quyền Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại trong các kế hoạch kinh tế, an sinh, ngoại vận… mặc dù toàn dân bất mãn, chế độ Cộng Sản vẫn còn tồn tại!
Sau khi vượt qua nhiều trạm gác tương đối dễ dàng, bởi vì mỗi lần xe sắp đến cổng gác, người lơ xe cầm giấy nhảy xuống chạy bộ đến trước, vừa trình giấy, lại vừa kẹp theo một ít tiền hối lộ trong giấy, tên gác khỏi cần xét xe, vẫy tay ra lệnh cho chạy luôn. Đang yên chí vì tình hình thuận lợi, xe chúng tôi lần nầy bất ngờ bị chận giữ lại vì gần tới giờ giới nghiêm. Hành khách được hướng dẫn đến một nhà ngủ tạm, chờ sáng mai tiếp tục lên đường.
Thấy dễ dãi, tôi bỏ ngay ý định lẻn trốn đi luồn qua rừng để thoát qua khu vực kiểm soát. Bất ngờ tốỉ đến, có toán tuần tiễu đi kiểm soát giấy tờ. Và chúng tôi bị bắt! Kiên nhát gan nên khi tên trưởng toán chĩa súng vào màng tang đe dọa là khai thật tất cả, do đó vai trò giả dạng một người dân đi làm rẫy quên đem theo giấy tờ của tôi cũng bị lộ tẩy theo. Chúng tôi bị giữ tại chỗ hai ngày, chờ xe trại tù Lam Sơn áp giải về. Khi giải lên xe, tôi bị trói quặt vào thành xe, sợi dây siết quá chặt làm những mạch máu bị bít nghẽn. Cơn đau bừng bừng như dòng nước lũ đang cuồn cuộn chảy bỗng bị bức tường thành chắn bít ngang, dội lại tung tóe lên tận óc não. Yêu cầu nới rộng dây không được đáp ứng, tôi bèn thét lớn: “Đồ quân vô nhân đạo. Tụi mầy chặt tay tao đi còn hơn.” Hai tên vệ binh nhào vào định đánh tôi, nhưng tên Cán bộ trưởng toán hiền lạnh ngăn lại và ra lệnh nới lỏng dây trói.
Trên đường đèo, ở nhiều khúc quẹo gắt, tôi định tìm cách đạp vào tay lái tên tài xế, cho cả xe lao xuống vực, chết chung một đám. Tên vệ binh linh cảm được điều tôi nghĩ nên đổi chỗ ngồi, kèm sát bên trái tôi, làm vật cản che tên lái xe.
Trở Về Địa Ngục Trần Gian
Về đến trại, tôi bị tống giam vào thùng Conex. Ngày hôm sau, hai tên gác mở cửa lôi tôi ra, chúng bắt tôi quay lưng lại rồi hô lớn.
— Quì xuống!
Tôi vẫn đứng bình thản như không hề nghe thấy.
—     Quì xuống!
Tiếng hét càng lớn hơn hòa lẫn cùng tiếng cơ bẩm súng lên đạn lách cách. Đám bạn tù binh nghe ồn, ùn ùn kéo lại đứng dọc theo hàng rào theo dõi. Tên thứ hai bèn nói nhỏ:
—     Thôi kệ, trói nó lại, dẫn đi.
Một Tòa án Nhân dân kiểu bỏ túi được lập lên trước văn phòng Bộ Chỉ huy Trại với nhiều khuôn mặt lạ chưa từng thấy. Đám vệ binh đứng dàn hàng ngang trong đội hình chuẩn bị bắn xử tử tại pháp trường, tên trưởng toán đến đứng nghiêm trước mặt tôi, dõng dạc hô lớn:
—     Quì xuống.
Mặt tôi đanh lại cương quyết. Mệnh lệnh được lập lại đồng thời cùng những viên đạn bay chéo qua tai, qua đầu tôi. Tôi nổi giận quát lớn:
—Bắn đi! Lý Tống nầy chết đi còn có trăm ngàn Lý Tống khác.
Phản ứng dữ dội bất ngờ của tôi làm những tay súng bỗng khựng lại, những khuôn mặt bỗng ngớ ngẩn.
Tên chủ tọa bèn đổi thái độ ra lệnh:
— Dẫn nó lại đây.
Họ hỏi tôi nguyên nhân và mục đích trốn trại. Tôi trả lời:
—     Mỗi người đều có một nhiệm vụ. Là Phi công tôi có nhiệm vụ chu toàn phi vụ, tận tụy với nhũng trái bom mình ném xuông. Là Tù binh tôi có nhiệm vụ vượt ngục.
Sau một hồi tra hỏi, tên chánh án nhấn mạnh:
—     Nếu tiếp tục ngoan cố anh sẽ nhận lãnh một bản án tối đa.
Tôi mỉm cười khẳng quyết:
—     Khi một người được ca ngợi và yêu mến ở phe bên nầy, thì chắc chắn họ sẽ bị nguyền rủa và kết án như một tay tội phạm nguy hiểm ở phe đối nghịch. Bản án các ông càng nặng càng tăng giá trị những cống hiến và hy sinh của cá nhân tôi đối với đất nước và dân tộc.
Tôi bị đem nhốt trở lại Conex. Một chuyên viên tra tấn đặc biệt đến tận Conex, dùng kềm rút từ từ những móng chân của tôi để trừng trị. Tôi cắn răng chịu đựng, thản nhiên để y rút trọn năm móng chân.
—     Các người chỉ rút được móng chân ta, nhưng không bao giờ rút được ý chí sắt đá đã đúc thành khối vững chắc trong đầu ta!
Tôi nằm trong một conex nhỏ, kín mít, đặt tênh hênh giữa trời. Trời nắng như thiêu đốt, từng ngụm nước nhỏ vừa trôi qua cuống họng đã biến thành những giọt mồ hôi rơi lộp độp liên tục trên mặt đáy thùng sắt. Tôi như cái bánh trong lò hấp, thấy mình đang khô và chín dần. Cơn đày đọa của ngày được nối tiếp bằng cơn quằn quại của đêm. Ban đêm trời rét, hơi người bốc lên gặp trần sắt lạnh đông lại, nhỏ xuống, bộ quần áo duy nhất ẩm ướt suốt đêm. Hai chân đóng băng, người tê cứng như tảng thịt bỏ trong ngăn đông lạnh. Nằm trong conex gần nửa năm, tôi có đủ thì giờ để nhận xét và suy gẫm về những chuyện vụn vặt của cuộc đời nói chung và bản thân mình, nói riêng.
Tôi đặc biệt chú ý đến thành phần Bộ đội Cộng Sản. Có những tên gác, trong bữa ăn, lấy đũa xăm vào tô cơm xem nhà bếp tù có dấu đồ ăn cho tôi không? Trái lại, có những người khuyến khích và cho phép bạn tôi tiếp tế thêm trong phiên trực của họ. Con người khi sinh ra đời, Thiện-Ác vốn là tính bẩm sinh, không phải Nhân sinh tính bổn thiện. Cộng Sản là môi trường thích hợp cho những ác tính nẩy mầm và phát triển. Những người bản chất hiền lành, thương người vẫn ít bị biến thể, không biểu lộ lòng tốt ồn ào như những nhà đạo đức giả; sự tế nhị, kín đáo của một số bộ đội tốt bụng đem đến sự cảm thông giữa những con người thù địch. Nhũng kẻ xấu như bèo bọt, rác rưởi nổi lềnh bềnh trên mặt dòng nước cuốn, cái nhìn hời hợt, nông cạn sẽ đánh giá sai lầm về khối nước trong lành thầm lặng dưới sâu.
Kẻ xấu thường dùng những thủ đoạn đê tiện. Có những tên Việt Cộng lấy vải cờ vàng ba sọc đỏ để may quần lót, hoặc lấy tên các lãnh tụ thù địch để đặt tên cho chó. Những con chó Lích, Ky, Tiệu, là những tên đọc trại theo giọng Bắc của Nixon, Kỳ, Thiệu. Tôi vừa giận vừa tức cười khi có đứa lại đặt tên cho một con chó mới đem về là Ný Tống.
Cùng nằm trong nhà tù, mỗi người tù đều có những ưu tư giống nhau nhưng lại có những cách làm khuây nguôi nỗi ưu tư những cách khác nhau. Với tôi, ngoài những mưu tính để thoát củi sổ lồng mà những kế hoạch, những chi tiết đã chiếm một khoảng lớn thời gian nghiên cứu, thời gian còn lại có lẽ là những hồi tưởng về đời sống cũ với những vui, buồn, với những ưu, khuyết điểm, cần phát huy hoặc khắc phục, là những cuộc đấu khẩu với bọn điều tra cần chuẩn bị trước để đối phó, là những tập luyện cần phải chú tâm.
Sự tập luyện để giữ vững tinh thần và ý chí không chỉ diễn ra trong lúc còn tỉnh thức mà còn phải xuyên qua cả trong giấc ngủ. Có những đêm giật mình thức giấc vì cơn ác mộng mà miệng vẫn còn há lớn kinh hoàng, mồ hôi còn ướt đẫm trong thời tiết giá lạnh sau những cuộc rượt đuổi, chém giết trong giấc mơ. Trong truyện Tàu, có một nhân vật kỳ lạ, bởi vì ông ta trong một lần nằm ngủ thấy bị kẻ thù lăng nhục, nên khi tỉnh giấc, ông cắp kiếm ngồi phục ở trong vườn nhà, chờ kẻ thù trong giấc mơ trở lại để đánh trả thù. Ông ta chờ từ ngày này qua ngày nọ, đêm ngày không ngủ, đến lúc kiệt lực và chết vì một mối uất hận, vì một mục đích trả thù viển vông. Tôi thì trả thù kẻ trong mơ — hay chính ra trả thù sự hèn nhát, khiếp nhược của mình trong giấc mơ — bằng cách vừa tỉnh thức là vận dụng sự hồi tưởng và trí tập trung để nằm mơ trở lại, để tìm những khuôn mặt, những quang cảnh của giấc mơ vừa qua.
Sau một thời gian tập luyện, tôi đã thành công khi vừa thức dậy vì bị rượt đuổi thất đảm là có thể tiếp tục mơ lại, thấy lại và chiến đấu trở lại. Và thật tuyệt là trong cuộc chiến đấu trong giấc mơ kế tiếp, tôi đã một mình tả xung hữu đột giữa đám kẻ thù hung hãn, và chiến thắng những kẻ mà tôi vừa bị đại bại. Có gì hạnh phúc bằng mình lại còn điều khiển được cả mình trong cuộc chiến đấu trong giấc mơ?!
Có nhũng thời gian thừa thãi rỗi rãi, tôi nghịch ngợm, lưu tâm đến những con vật bé nhỏ quanh mình để giải trí, nhờ chút ánh sáng xuyên qua lỗ đạn nhỏ độc nhất. Tôi ngạc nhiên nhìn những con muỗi khôn khéo, lom khom đi trên hai chân, lách qua các khe hở nhỏ lắc léo để chui ra, vào conex bít kín. Những con kiến hèn mọn sống kỷ luật trong tổ chức xã hội qui củ, với sự phân biệt chủng tộc nặng nề giữa các loài vật. Những con kiến hôi nhỏ bé lù khù bị những con kiến đen nhanh nhẹn, xốc vác hiếp đáp; những con kiến lửa dữ tợn, khỏe mạnh, nghênh ngang tư thế bá chủ. Những cuộc tử chiến để giải quyết hận thù giữa loài vật.
Trận thư hùng giữa hai con kiến lửa, một heavy weight, và một light weight, kiến nhỏ cắn cổ kiến lớn, kiến lớn dùng càng siết gọng kềm ngang bụng kiến nhỏ. Cuộc chiến đấu quyết liệt kéo dài đến khi kiệt sức mà chết, như hai nhân vật trong truyện Tàu. Con kiến nhỏ chết trước, kiến lớn chiến thắng nhưng sau khi đi quờ quạng vài bước, cũng ngã xuống chết theo. Có trận đánh nhau có cả trọng tài giám sát, hai kiến đen trọng tài nằm rạp hai bên, chúi mũi theo dõi trận đấu rất nhiệt tình, tận tụy, và can thiệp khi có một võ sĩ kiến chơi không đúng luật! Chúng di chuyển và giữ khoảng cách, góc độ vuông vắn. Một kiến trọng tài sau hồi lâu theo dõi, đứng lên, vươn vai làm vài động tác cho đỡ mỏi, rồi bỏ đi như thể muốn ném lại một câu chửi thề: “Mẹ, hai chú mầy đánh nhau dằng dai quá. Tao về ngủ cho khỏe.” Chú kiến trọng tài còn lại tiếp tục điều khiển trận đấu. Khi hai chú kiến địch thủ đều chết, kiến trọng tài tha cả hai về tổ.
Cuộc sống thật kinh khủng. Hàng ngày, hàng giờ trên khắp quả địa cầu, biết bao con người, biết bao loài vật đang gây chiến, tàn sát nhau để tranh sống, để thỏa mãn tham vọng, để giải quyết những mâu thuẫn phi lý. Nhìn về bản thân, và qua các sự khám phá và nhũng kinh nghiệm đau lòng về cuộc sống người tù nhân, tôi nhận thấy sự thâm thúy của chính sách Làm chủ kinh tế sẽ làm chủ chính trị. Phải ở trong hoàn cảnh cùng khổ mới nhận chân được giá trị của từng con người và thấy hết được giá trị của từng hột cơm, chiếc xương cá. Vị giác và khứu giác của những con người đói khát trở nên tinh tế đặc biệt. Tôi phân biệt được cái vị thanh ngọt riêng biệt của từng ngụm nước lạnh lấy từ những giếng nước khác nhau, đun sôi ở những độ khác nhau. Cái vị ngọt ngào của đường, cái vị béo ngậy của mỡ gây những cảm giác chấn động cho thể xác khô héo, thiếu thốn. Tất cả cơ phận của bộ máy tiêu hóa ngây ngất đê mê khi được một chút thỏa mãn. Sự kích thích sâu xa, mãnh liệt tác động cả trong giấc ngủ. Ăn một miếng thịt nhỏ bé hiếm hoi cũng có thể tạo nên được một giấc mơ, một lần mộng tinh khoái lạc. Mộng tinh, mộng mị là những hạnh phúc tuyệt vời của những ngày tháng lao tù, đày đọa. Chưa bao giờ tôi nằm mơ nhiều như thời gian nằm conex. Hình như tối nào cũng nằm mơ, mỗi đêm mơ nhiều giấc mơ khác nhau. Đêm là một chuỗi những giấc mơ liên tiếp, và giấc mơ cứ quanh quẩn với chừng đó đề tài.
Tôi mơ thấy mình đang bay lượn trong chiếc phi cơ ngày cũ, phía dưới kia là một rừng cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trong những ngày hội lớn, quân và dân miền Nam đang tập họp lại và ùn ùn đứng đậy khởi nghĩa. Rồi bỗng nhiên tất cả biến mất, rừng núi bỗng xuất hiện bạt ngàn, và tôi đang bay lạn giữa trời một mình, không có cả phi cơ, hai tay chập chờn như đôi cánh chim, bay qua bao núi non, làng mạc, ruộng đồng như một chim trời thong dong vui thú, cho đến khi khả năng bay không còn nữa, tôi cứ rơi là đà xuống đất. Tôi cố vùng vẫy, cố vươn lên khi những ngọn cây càng lúc càng nhô lên, ào ào phóng lên và giật mình thức tỉnh khi tiếng la hét như vừa thoát ra khỏi cổ họng.
Có lúc tôi nằm mơ, thấy chạy xe một mình, ngược dòng thác xe cộ đang đổ tuôn rầm rộ về phía mình. Những người chạy ngược tôi hớt hãi, vội vàng, họ đội nón cối, họ mang dấu hiệu cờ đỏ sao vàng, họ tranh nhau, giành nhau chạy cho kịp giờ ấn định trong cuộc tháo lui hốt hoảng. Tôi vẫn chạy ngược chiều, quay cuồng chóng mặt vì tốc độ, vì mật độ đông đảo của xe, tôi thấy hào hứng vì mình là nhân chứng duy nhất đang chứng kiến sự tháo chạy kinh hoàng của kẻ địch bại trận.
Hoặc tôi mơ thấy những cao lâu tửu quán sang trọng, những mâm cỗ tiệc đầy ngập thức ăn ngon lành, tôi đang ngấu nghiên ăn, thèm khát ăn. Ăn từ bàn nầy đến bàn nọ, ăn từ đầu tiệc đến tàn tiệc, cái ăn trong giấc mơ đã vận động các cơ quan trong người phải cử động theo, lúc giật mình thức dậy, thấy miệng mình vẫn đang còn nhai, tay mình vẫn đang quơ quào trong không khí như đang gắp lấy món ăn thích khẩu.
Đặc biệt là những giấc mơ về đàn bà trong những đêm tôi bị sốt nặng vì năm ngón chân bị rút móng làm độc hành hạ. Hình như mỗi lần thân thể bệnh hoạn đau đớn, thần kinh cố gắng tạo ra những giấc mơ để an ủi, khuây khỏa cơn đau. Nhưng chính những giấc mơ đầy hình ảnh nữ nhân lại làm cho thân thể càng suy nhược hơn, và bệnh càng trầm trọng thêm.
Tôi thường bị kéo giật ra khỏi giấc mơ, tỉnh thức vì một tiếng động dữ dội. Tên Việt Cộng gác đã một lần vô tình ngồi dựa vào conex ban đêm và tôi đã vô tinh tiểu tiện xuyên qua lỗ nhỏ trên thành conex, đái ướt cả đầu y, đã trả hận bằng cách rủ thêm vài tên bạn, mỗi lần đi ngang conex nhốt tôi, lại ném vài cục đá thật lớn để trừng trị tôi, kẻ chúng nghĩ đã cố ý đái vào đầu để chơi xỏ họ. Trong thùng sắt kín, tiếng vang dội ầm ầm như một loạt bom nổ, kéo tôi trở lại với thực tế phũ phàng, với một bên ngực quặn đau ghê gớm bởi trái tim đập mạnh hỗn loạn như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hạnh phúc — Bất hạnh. Ngày tháng chậm rãi trôi qua. Có những phút giây ngẩn ngơ lầm lẫn giữa ngày đêm, giữa mộng và thực. Tôi cảm nhận cái ý nghĩa kỳ lạ của cuộc sống và con người. Cộng Sản có nhận thức sâu sắc về con người nên dễ dàng chế ngự con người. Sự đói khát, sự đày đọa nâng cao giá trị những tiện nghi tầm thường, những chút hạnh phức hèn mọn. Khi nhu cầu bức thiết bị hạn chế, sự thỏa mãn dễ dàng đạt đến tột độ. Sự khoái lạc của một người cu ly lam lũ bên ly rượu đế, nhâm nhi trong một quán cóc tồi tàn đạt hơn gấp bội nhà tỉ phú chán chê nhìn cao lương mỹ vị bày biện trong những tửu lầu sang trọng xa xỉ. Ôi tuyệt vời thay những giây phút nghỉ tay đứng chống cuốc giữa trời nắng, hơi nóng bốc ù tai, lim dim mắt tận hưởng một thoáng gió mát thoảng qua; những vá mỡ thực vật nuốt vội vàng lén lút trong các kho tiếp liệu nghèo nàn, kiểm soát chặt chẽ. Phải chăng vì cái hạnh phúc, khoái lạc kỳ lạ đó mà những tầng lớp bị áp bức bóc lột vẫn chịu đựng được cuộc sống đày ải, vẫn cảm thấy thèm khát sống trong những hoàn cảnh bi thương? Và tồi tệ hơn, có thể hãm hại nhau để được thỏa mãn cái nhu cầu hèn mọn đó!
Tiếng cửa sắt conex mỗi lần mở ra gầm lớn như một cơn giận vừa bùng nổ. Tôi đường bệ, thong thả bước ra, tiếng động như tiếng cồng báo hiệu để các bộ đội Cộng Sản từ trong các gian nhà đổ ra chiêm ngưỡng. Vâng! Làm sao họ không hiếu kỳ cho được khi nhìn hai người tù bị kỷ luật với hai phong thái khác nhau. Ớ conex bên cạnh, Kiên ngồi chồm hổm dưới đất, đầu cúi vục xuống tô đựng cơm, vẻ tội nghiệp. Còn bên nầy, tôi ngồi đỉnh đạc trên chiếc nón sắt, lưng dựa nhàn tản vào thành conex, vừa nhẩn nha nhai cơm vừa ngắm trời đất, phong cảnh một cách an nhiên tự tại. Nhờ đóng vai tội nghiệp nên Kiên chỉ bị nhốt mười lăm ngày rồi thả về trại với các tù khác, còn tôi thì tiếp tục nằm dài dài tại conex. Từ trước đến giờ họ chỉ nghe và đọc về các nhân vật huyền thoại do Cộng Sản dựng ra, tô màu đánh bóng để ca ngợi, giờ đây được thấy một hình ảnh bất khuất bằng xương bằng thịt, dù là kẻ thù, các chú bé bộ đội vẫn theo dõi một cách kiên trì. Sự hiếu kỳ không mai một theo thời gian. Gần sáu tháng trôi qua, vẫn những cặp mắt, vẫn những cái đầu chụm vào nhau, vẫn những câu thầm thì to nhỏ. Có chú bạo miệng so sánh:
— Người nầy đối với chế độ Sàigòn cũng cỡ như Anh hùng Nguyễn Văn Trổi bên mình vậy!
Câu so sánh đã trở thành như một lời tiên tri kỳ lạ. Bởi sau khi vượt ngục thoát trại tù A30 trở về Sàigòn, tôi ẩn nấp tại một căn nhà mà chung quanh đều bao bọc bởi tên Nguyễn Văn Trổi! Trước mặt là Bưu điện Nguyễn Văn Trổi. Bên phải là cầu Nguyễn Văn Trổi. Bên trái là chợ Nguyễn Văn Trổi. Sau lưng là phường đội Nguyễn Văn Trổi, còn nhà thì nằm trên đường Nguyễn Văn Trổi!
Trại Tù 52
Giữ vững lập trường trước sau như một, đó là kim chỉ nam của tôi. Nhớ hồi ở Trại Tù 52, trong khi chờ vệ binh dẫn đi làm, tôi đã buộc miệng chửi thề khi thấy thằng khùng xách súng lò dò lại:
—     Đù mẹ, lại gặp thằng Hắc Ám khốn nạn nữa.
Thế là có tay ăng ten báo cáo ngầm lên trên, tôi bị đem cùm nhà kỷ luật, nhưng cương quyết không nhận tội. Lý do thứ nhất, tôi muốn biết đứa nào đã làm chuyện báo cáo tồi bại đó; thứ hai, tôi muôn thử thách bản thân mình, xem thử sự tra tấn có làm mình yếu đuối, đầu hàng trước những bằng chứng rõ ràng, trước họng súng đe dọa. Tôi nghĩ đến những chiến sĩ bị địch bắt vẫn cương quyết giữ kín những tin tức bí mật, quan trọng không khai. Mặc dù tên Quản giáo “Tay súng bá vàng” đã dùng áp lực bắt toàn đội công nhận rằng tôi có nói nhưng khi bị áp giải về trước buổi họp xét xử, tôi đã trừng mắt thách thức tên cán bộ:
—     Ai báo cáo và làm chứng đâu? Tôi gằn giọng hỏi.
Bốn đôi mắt tóe lửa, đằng đằng sát khí, gờm gờm nhìn nhau như muốn ăn tươi nuốt sống địch thủ trong cuộc đấu nhãn lực giữa tôi và tên Quản giáo làm đám chó săn “rét” quá nín luôn. Ăng ten là một nghề tồi bại, chỉ làm lén lút, chẳng đứa nào dại tự nhận, tự xưng tên. Đám Cán bộ cũng không muốn để lộ mặt những người đã tốn công gài vào. Kẹt quá, y bèn hô mấy tên vệ binh chực sẵn trước cửa:
—                     Vào bắt trói nó lại. Hai tên gác chạy vào, chĩa súng, trói ngược tay tôi về sau. —                     Quì xuống! Tên Quản giáo thét lớn. Tôi không tuân lệnh và dõng dạc trả lời:
—                     Điều 12 trong Chánh sách của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam qui định: “Không lăng nhục, đánh đập tù binh, không làm mất danh dự tù binh.” Nếu Cán bộ không chấp hành đúng Chính sách Nhà nước, tôi không chấp hành lệnh Cán bộ.
Thế là cả bọn Vệ binh ùa vào kéo tôi đem nhốt phòng kỷ luật. Toàn bộ gian nhà chỉ có một vật duy nhất còn mới và chắc chắn, đó là cái cùm. Không cần phải hiện đại, tối tân với tường bê tông cốt sắt, với những song sắt lớn như các phòng giam tại các quốc gia tân tiến, và chính cái tồi tàn đơn giản đó, lại là một hình thức trừng trị nặng nề hơn, một hình thức bảo vệ an toàn hơn vì tên gác, hoặc bất cứ tên bộ đội nào ở từ xa cũng có thể quan sát được những hoạt động, cử động của người tù bị kỷ luật. Người tù phải nằm lạnh lẽo trên mặt đất trần trụi với hai cổ chân bị siết chặt trong cùm gỗ, và những cơn gió lạnh về đêm, những đợt nước tạt vào trong những ngày mưa gió là những đày đọa thường trực nhất mà người bị đày đọa không có lý do để buộc tội những hình thức đày đọa mình. Cùng kinh qua một cảnh cùng khổ, có người phải tự tử chết, có người vẫn sống một cách thản nhiên.
Chúng cùm tôi nằm sấp, chân hỏng cao. Chân cùm, tay trói cánh gà, sức nặng cả người dồn lên mặt đất tại một điểm tựa duy nhất ở đầu. Ngọn đèn dầu tù mù đủ soi bóng một đám người lố nhố như bầy quỷ ăn thịt người. Chúng bí mật làm hiệu và bất ngờ sáu đứa đồng loạt phóng chân đá vào người tôi. Tôi thét lên một tiếng lớn:
—     Đồ hèn!
Cái âm vọng cuồng nộ của tiếng thét mà nhũng người bạn tù trong Trại cách đó trăm thước nghe vang dội, lại tưởng là tiếng thét cuối cùng của một tử tội, không ngờ lại có mãnh lực làm kinh hoảng bọn người bất nhân đó. Cả bọn đều bỏ chạy tán loạn chỉ còn lại tên gác. Tên “môi thâm” cầm khẩu súng AK có gắn lưỡi lê, rà cái mũi dao nhọn hoắt rê rê khắp cổ, mặt mũi tôi. Cảm giác ớn lạnh của dụng cụ giết người, của tử thần, làm người tôi mọc gai ốc. Tất cả sức nóng trong người đều như dồn tập trung tại cái điểm tiếp xúc lạnh lẽo của mũi lưỡi lê đang di động, nên lớp mồ hôi vã ra khắp người lại càng lạnh tanh. Y nghiến răng phát ra những tiếng gầm gừ ma quái:
—     Tao thèm đâm mầy một dao lút cán. Tao thèm mổ bụng mầy. Tao thèm rạch nát mặt mầy…
Tao thèm, cái tiếng thèm rung rung, rền rĩ như tiếng gào thê thiết của loài mèo trong đêm động tình. Y gằn giọng hỏi tôi một cách chế giễu:
—     Hồi nãy mầy không quì, mầy bảo quì là nhục. Thế giờ nầy bị trói và cùm như con heo, mầy có thấy nhục không ?
Tôi cười lớn bảo:
—     Mầy không hiểu thế nào là nhục hả? Một bọn sáu người, vừa có quyền thế, vừa có súng ống, vừa có sức mạnh, lại đi hà hiếp, bắt nạt một kẻ tay không, cô thế, vừa bị cùm, vừa bị trói, mà mầy không thấy ai nhục à? Sáu con người đối xử với tao như đối xử với một con vật. Nhưng ai là con vật, ai là con người?!
Bên ngoài bỗng rộn ràng nhiều tiếng chân người. Tiếng hối thúc, tiếng mở kho dụng cụ, tiếng hỏi lao xao:
—     Định chôn nó ở suối hay cạnh sau rừng?
Tôi chẳng hiểu chúng dàn cảnh dọa dẫm hay làm thiệt. Bỗng nhiên một cảm giác thanh thoát lâng lâng tràn ngập tâm hồn. Tôi nằm tận hưởng những giờ phút tuyệt vời cuối cùng của sự sống. Hạnh phúc òa vỡ như thác nước vừa phá tung đập chắn, trùm phủ toàn thân căng lên vì xúc động.
Tôi nằm chờ chết với một nụ cười vừa thoảng qua môi.
Bỗng có tiếng lao xao của sỏi đá. Và hai tên bộ đội xuất hiện. Một tên gằn giọng hỏi:
—     Đây là lần cuối cùng. Nếu mầy nhận tội sẽ tha cho về ngay.
Tôi khẳng định:
—     Không.
—     Vậy thì mở cùm dẫn nó đi. Một tên ra lệnh.
—     Tao không đi đâu hết. Tôi nói lớn. Muốn giết tao, bọn mày cứ bắn chết tao tại đây. Đừng bày trò dẫn ra ngoài, rồi hô hoán tao vượt ngục để bắn chết, như vậy không phải là thái độ anh hùng.
Họ đứng nhìn nhau, dùng dằng, rồi bỏ đi. Ngày hôm sau, tôi bị dẫn vào gặp Trưởng trại, y ra lệnh cho tất cả vệ binh ra khỏi phòng rồi bảo tôi:
—     Tôi biết anh đã từng bất tuân lệnh quỳ của Cán bộ tại các Trại. Nếu ở trong trường hợp anh, tôi cũng sẽ theo gương anh khi bị buộc phải làm chuyện mất danh dự đó trước hàng trăm Chiến hữu của mình. Nhưng tại đây không có ai cả và Hồ Chủ tịch là một anh hùng vĩ đại không chỉ đối với Nhân dân VN mà các Lãnh đạo thế giới cũng đều ngưỡng phục. Ở đây, không có ai. Nếu anh chịu quì trước ảnh Hồ Chủ Tịch, tôi sẽ bỏ qua mọi tội lỗi của anh và tha anh về Trại ngay lập tức.
Tôi lắc đầu bảo:
—     Cám ơn thành ý của ông. Ở đây không có ai nhưng còn có ông, có tôi, có Trời, có Đất và có lương tâm của tôi. Tôi thà trở lại nhà kỷ luật hơn làm chuyện hèn hạ, nhục nhã đó.
Nói xong, tôi tự động bỏ về nhà cùm. Không ngờ Trưởng Trại lại hạ lệnh nhà cùm thả tôi về Trại dù chỉ mới bị nhốt 2 tuần. Vừa vào cổng, thấy bạn tù đang chơi bóng chuyền, tôi vội ném chiếu, mền xuống đất nhảy vào tham dự. Tôi nhảy lên đập biểu diễn một cú banh được nâng thật đẹp nhưng banh bị đính vào lưới.
—    Đù mẹ, mang cùm nặng quá nhảy lên hết nổi rồi!
Tôi trần tình bằng một câu chửi thề. Hai tên vệ binh áp giải nhìn nhau lắc đầu bảo:
—     Mẹ! Gặp thằng “Giặc lái” nầy tao cũng ớn luôn.
Đó là lần đầu tiên và duy nhất tôi bị đánh đập, ngoài lần bị rút năm ngón chân sau khi trốn trại tù Lam Sơn. Trong khi có nhiều bạn tù chỉ vì một lỗi tầm thường, cũng bị ăn đòn nặng. Có người bị đánh chết một cách thật lãng nhách như một tù binh tại Lam Sơn. Anh tù bị sốt nặng không được nghỉ lao động, trên đường đi, lên cơn làm sảng. Anh cuồng trí la hét và chạy nhào về phía mấy tên lính gác. Bộ đội hô hoán là tên tù giả vờ đóng tuồng để cướp súng! Cả bọn xúm vào, dùng súng, cây, đánh người tù bệnh một trận thẳng tay, xong đem về nhốt conex. Sáng mai, mở cửa, người tù binh chết tự lúc nào vì bị nứt sọ!
Sau nầy khi chuyển về Trại tù 53, tôi mới rõ một trong những lý do của sự may mắn của mình. Số là có một toán bộ đội miền Bắc vừa được đổi đến, toán người nầy mới đến nhưng đã gây nhiều thành tích khủng khiếp. Một tù binh trả lời ấp úng, liền bị bắt há miệng ngậm mũi súng, tên gác bất ngờ giật bá súng, đầu ruồi nòng súng móc văng mấy răng cửa. Miệng môi nạn nhân bị bể, máu phun tung tóe.
Liêu, một tù binh phụ trách canh tác đội, đang đứng tiểu tiện sau vườn. Thấy tên “tóc mai” đi qua, sợ quá nên quay lại chào, quên mất là tay đang cầm chim đang tiểu. Liêu bị “tóc mai” đánh cho một trận nhừ tử:
—     Đồ bố láo! Mầy dám vừa cầm đầu bố mày vừa chào ông hả ?
Lại có năm tù binh khác cắt tranh thiếu chất lượng bị phạt quì trước cổng trại. Tên Cán bộ ra lệnh phạt, bỏ đi ăn cơm trưa rồi lại ngủ quên đi. Một Cán bộ khác thấy năm người quì đã mấy tiếng đồng hồ giữa trời trưa nắng chan chan, tội nghiệp, bèn tự tiện đến cho phép họ trở về nhà. Thế mà năm người vẫn tiếp tục quì và trả lời:
— Thưa cán bộ. Ông Cán bộ C. bắt quì thì khi nào ông Cán bộ C. tha chúng tôi mới dám về. Nếu về theo lời của cán bộ, ông C. sẽ đánh chúng tôi chết!
Chuyện đánh tù xảy ra như cơm bữa, thế mà tôi vẫn bình yên. Một hôm đi đốn cây, Thư “ròm” trung úy Bộ Binh, được đám vệ binh kêu lại nói chuyện trong giờ nghỉ giải lao:
— Anh có nhận xét gì về chúng tôi ?
Thấy đám hung thần ngàn năm một thuở mới có bữa dễ tính, Thư “ròm” nhẹ nhàng phát biểu:
—    Dạ, toán của Cán bộ dữ quá, đánh đập nhiều quá làm anh em sợ!
Một tên trong đám cười hỏi:
—    Anh biết tại sao chúng tôi đánh các anh không?
—    Dạ vì chúng tôi phạm lỗi, học tập chưa tốt, lao động chưa tốt, chấp hành nội quy chưa tốt. Thư ròm nhanh nhẩu trả lời.
—    Không phải. Bỏ mấy câu lải nhải như vẹt đó đi. Y nhấn mạnh. Tại vì ngày trước các anh là Đại tá, Trung tá, Đại úy, Trung úy… nói chung, các anh có quyền hành trong tay, các anh ỷ quyền, lạm quyền, hung hãng phách lối, muốn đánh ai thì đánh, giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù. Thế mà giờ nầy vào đây, một số trong các anh hèn quá, tồi quá. Đứng trước mặt chúng tôi run rẩy, khiếp nhược, van xin, luồn cúi. Chúng tôi tởm quá, khinh bỉ quá, nên đánh cho bõ ghét. Trái lại, đối với những người khác, chẳng hạn như Lý Tống… Anh có biết Lý Tống không?
—    Dạ biết chứ. Thư “ròm” hăm hở gật đầu.
—    Ví dụ như Lý Tống, anh ta lúc nào cũng hiên ngang, cũng hào hùng, bất khuất, tự tin. Chúng tôi sau lần thử lửa cũng nể, cũng phục, chúng tôi đâu dám đụng đến anh ta nữa.
Mặc dù đây không phải là nguyên do thông dụng để Cộng Sản viện ra trừng trị tù binh bởi vì không thiếu gì tù binh ngoan cường bất khuất vẫn bị đánh đập hành hạ đến chết bởi những tên khát máu bẩm sinh, nhưng ít ra câu nói và ý nghĩ đó cũng diễn tả được một phần nhỏ những yếu tố quan hệ đến thế tương liên giữa người tù và cai tù cũng như bẩm chất riêng của từng con người thuộc các phe phái đối nghịch.
Một lần đi lao động, gặp một tay Cán bộ khó tính, hắc ám, y không cho phép tù binh đi tiểu, đi cầu trong giờ làm việc, ngay cả lúc đang bị tào tháo đuổi. Tôi đang đau bụng ráng nhịn và khi nghe tên vệ binh cho nghỉ, tôi phóng ngay vào bụi rậm xổ ngay “bầu tâm sự.” Xong xuôi, vừa đi ra thoải mái, tôi ngạc nhiên thấy tất cả bạn tù lại đang làm việc. Thì ra giữa tên vệ binh và tên quản giáo có sự xung khắc nhau, tên nào cũng muốn tỏ mình có uy quyền. Vì thế khi tên vệ binh tự tiện cho nghỉ, tên Quản giáo lại ra lệnh làm việc tiếp và tôi trở thành kẻ vi phạm kỷ luật do y đặt ra. Y kêu tôi lại, nạt lớn:
—     Ai cho anh đi ỉa. Anh không tuân theo điều lệnh của tôi sao?
Tôi nhún vai, trả lời:
—     Vệ binh cho nghỉ, và tôi đi ỉa trong giờ giải lao.
Y tức tối vừa rút súng vừa gào lớn:
—     Trong nầy chỉ có tôi là có quyền cho nghỉ. Tôi sẽ bắn bỏ bất cứ tù binh nào trái lệnh tôi.
Y cầm súng, chĩa vào mặt tôi, khẩu Colt 45 còn bọc trong bao giây ni lông quên gỡ ra vì giận và mất bình tĩnh. Tất cả tù binh và bộ đội đều đứng sững nhìn một cảnh kỳ lạ, tức cười. Kẻ cầm súng, mặt tái xanh, run rẩy, thiếu tự chủ, còn kẻ bị chĩa súng vào đầu, tay không, lại thản nhiên mỉm cười coi khinh. Cuối cùng mấy tên vệ binh hiềm khích với tên Quản giáo khoái chí đến kéo tôi đi chỗ khác, mặc cho tên Quản giáo lúng túng tức tối.

Người Anh Em

Thời ở tù tại trại Lam Sơn, một số Cán bộ gốc miền Nam, cấp lớn, thỉnh thoảng cũng đến thăm con em mình. Chủ nghĩa Cộng Sản không gột rửa được những tình cảm con người, nhưng chế độ tàn bạo đã làm thay đổi, hạn chế những tình cảm ruột thịt. Họ thường trần tình:
—Cha vẫn thương con, nhưng không thể vì con mà ảnh hưởng đến Sự nghiệp Cách mạng xây dựng trong 30 năm qua.
Chính vì những hiện thực tồi tệ đó mà tôi đã tuyên bố sẽ từ chối gặp người anh nửa ruột thịt của mình nếu anh đến thăm tôi, với lối chơi chữ đồng âm dị nghĩa:
—Ngày xưa anh và tôi cùng máu mủ. Giờ đây anh đi theo Cộng Sản, anh trở thành người khát/khác máu.
Tuy vậy ông anh cũng đã lặn lội đường xa đi tìm tôi ba lần ở ba trại tù khác nhau. Lần đầu tiên năm 1975, anh đến Trại Lam Sơn thuộc địa phận Nha Trang. Anh bị Ban Chỉ huy trại tù yêu cầu trở về vì đám ăng ten đã báo cáo câu tuyên bố trên của tôi. Năm sau, anh lại đi mấy ngày đường từ Sàigòn ra Tuy Hòa, băng đồng, vượt suối tìm đến Trại 52 thuộc tỉnh Phú Khánh. Lần nầy trại tù còn có lý do chính đáng hơn để cấm thăm nuôi: Tôi bị cùm nhà kỷ luật vì lý do chửi Cán bộ và không chấp hành lệnh bắt quì. Theo nội quy thì những tù binh bị phạt kỷ luật không được thăm nuôi trong vòng từ ba tháng trở lên.
Đẩu, người tù binh phụ trách chăn bò cho Trại, sau đó gặp tôi tả lại cảnh gặp anh tôi trên đường. Anh tôi hỏi:
—    Anh có phải tù binh ở trại nầy không?
—    Dạ phải.
—    Anh có biết Lý Tống không ?
—    Dạ biết. Nó đang bị kỷ luật,
—    Tôi là anh nó đây. Tôi đi thăm nó mấy lần mà lần nào cũng bị đuổi về không cho gặp.
Nói đến đây anh khóc nức nở. Đẩu diễn tả dáng dấp người đàn ông cao dong dỏng, gầy, đeo kính cận, rất trí thức, rất tình cảm, và cái buổi chiều thật buồn trên con đường thật vắng lặng, heo hút, người đàn ông cúi mặt lầm lũi trên đường về, vừa đi vừa khóc tức tưởi. Đẩu kể lại với sự xúc động chân tình và tôi cũng xúc động theo. Năm sau, cùng với đứa con gái lớn, anh lại phải vượt đoạn đường xa hơn, hiểm nghèo hơn, đi đến khu vực nhà tù Trại 53 mà chung quanh chập chùng núi non và lác đác vài buôn làng nguời Thượng.
Ngày xưa Lưu Bị ba lần yết kiến Khổng Minh để cầu hiền tài, ngày nay, người anh cùng cha khác mẹ đi tìm tôi ba lần mới được gặp mặt. Gặp anh, tôi nhớ lại những câu chuyện năm xưa, những ngày khói lửa ngập tràn xóm làng, quê hương. Cha tôi là một địa chủ giàu có với hàng trăm mẫu ruộng cò bay thẳng cánh, với uy tín và khả năng kinh tế, cha tôi đã tập hợp tất cả nông dân trong làng, huyện, hướng dẫn và nuôi nấng họ để thành lập Mặt trận Kháng chiến tại Quận Hương Thủy, Thừa Thiên, Huế chống lại bọn thực dân Pháp. Nhà tôi trở thành Bộ Chỉ huy.
Ngày ngày một bộ phận nhà bếp lo phụ trách nấu từng chảo cơm lớn để cấp phát cho lực lượng thanh niên chiến đấu cũng như những người dân nghèo đói thiếu thốn. Tất cả kế hoạch phòng thủ làng xã đều được truyền đi và báo cáo tại đây. Thế rồi quân Pháp đã dùng lực lượng vũ trang mạnh bằng xe tăng, máy bay, tấn công và càn quét toàn vùng, cha tôi cùng toàn bộ tham mưu bị bắt, bị dẫn vào rùng và bị xử bắn. Chiếc đầu bị chặt đứt lìa khỏi thân thể tại một địa điểm bí mật và hẻo lánh mà sau nầy, khi những người Thượng trong toán dẫn tội nhân đi hành hình kể lại với câu nói ngắn bằng tiếng Pháp couper la tête và bàn tay làm dấu cứa ngang chiếc cần cổ đang ngửa lên. Gia đình tôi đã khổ công nhiều năm vẫn không tìm ra được địa điểm xử tử để hốt xương cốt người thân yêu về chôn cất.
Người anh đang bị giam giữ tại nhà tù nghe tin cha chết, vượt ngục trốn thoát. Lực lượng kháng chiến địa phương hoàn toàn tan rã, anh trốn vào rừng. Cuối cùng không còn đường nào khác, anh đành đi tập kết, mười mấy năm sau trở lại Sàigòn với chúc Giáo sư dạy văn và sinh ngữ khiêm nhường tại Đại học, sau khi Sàigòn bị mất vào tay Cộng Sản.


Trại Tù 53

Tại Trại 53, nhóm Quách Giang gồm bảy người, đào thoát được ba tháng. Một hôm trong công tác về nhà nhận đồ tiếp tế, Quách Giang bị bắt chỉ vì khát nước vào vườn dân bẻ trộm mía. Tệ hơn nữa, thay vì làm kế hoãn binh để nhóm trong rừng kịp thời di chuyển, Quách Giang đưa điều kiện để dẫn du kích đi tìm bắt trọn ổ đồng bọn: “Một bữa ăn ngon với một chai rượu và một con gà luộc.” Sau khi sa lưới, bốn người được chuyển giao nhốt tại nhà cùm trại 53. Một bữa trưa, sau giờ ăn cơm, cả trại tù nhớn nhác vì những tiếng la thét kinh hoàng.
Đứng dọc theo hàng rào, tù binh chứng kiến cảnh nhà kỷ luật đang bốc cháy nhưng chưa có lệnh nên không ai được ra cổng để cứu người bị nạn. Lửa gặp tranh khô, gió lớn, bốc cháy tàn bạo, tiếng kêu cứu của người bị đốt cháy chìm trong tiếng gào rú của cơn bão lửa. Đợi khi nhà cùm hoàn toàn thiêu rụi, Ban Chỉ huy Trại mới cho lệnh xuất trại cấp cứu. Chúng tôi chỉ còn kịp khiêng xác bạn bè bị cháy căng phồng, nứt nẻ từ nhà cùm đến nhà xác. Lửa đã giải phóng đôi chân họ khỏi cặp cùm bằng gỗ, lửa mở rộng khung cửa hàng ngày đóng im ỉm, giam cầm cuộc đời phạm nhân trong bóng tối miên viễn.
Quách Giang sống sót một mình nhờ nằm ở gian nhà sau, có hầm đất che chở. Tôi ở trần cõng Quách Giang vào bệnh xá, mùi thịt người cháy khét lợm giọng. Hơi thịt người cháy hít vào phổi, ngấm vào da thịt cả tuần còn tởm lợm buồn nôn. Quách Giang bị cưa hai bàn chân, hai tuần sau, cưa lên đầu gối và sau đó cưa lên tận háng, vì Việt Cộng ít khi thừa thuốc trụ sinh để chích cho tù, nhất là tù trốn trại.
Quách Giang được thả về. Việt Cộng không có tài trị bệnh, nhưng là một bậc danh sư về định bệnh: Ít có tù nào được phóng thích vì bệnh mà lại sống quá hai tháng. Quách Giang không chỉ chịu đau đớn vì vết thương thể xác, mà vết thương tinh thần còn trầm trọng hơn. Sự hối hận về hành động ngu xuẩn và hèn hạ của mình đã hãm hại đồng bạn nên tự tử chết tại nhà.
Điều trắng trợn, thô bỉ nhất là Ban Chỉ huy Trại bắt tên chó săn “Sơn khói” Khối trưởng của tù, làm bản báo cáo lên Ty Công An để chạy tội đốt nhà kỷ luật: “Toàn thể tù binh trại 53 nhận tội vô ý làm cháy nhà kỷ luật!”
Ấn tượng kinh hoàng chưa kịp phai mờ, thì chuyện khủng khiếp khác xảy ra. Một chuyên viên sát nhân từ Hà Nội được biệt phái đến điều tra. Trung uý Cường, ông già hớt tóc, cựu Trung úy An ninh Quân đội, được hỏi thăm sức khỏe đầu tiên. Cường “già” khai trương nhà kỷ luật mới. Sau khi bị cháy, nhà kỷ luật được xây cất lại theo kiểu mẫu tiêu chuẩn, gồm nhiều phòng, xây thành hầm chữ A, đắp bằng đất sét. Bề cao không đủ đứng, bề dài không đủ nằm, hai bàn chân bị cùm thò ra bên ngoài cửa.
Cùm gỗ là hai thanh gỗ ghép lại, khoét hai lỗ vừa khổ với cổ chân. Ban đêm những bàn chân nằm trơ trọi bên ngoài trông thật kinh dị, những bàn chân khốn khổ vì lạnh lẽo, vì muỗi đốt. Có lúc bị kiến, rắn cắn hoặc chó, chuột gặm và những tên gác ác độc, mỗi lần đi ngang lại đá, đạp hoặc dùng cây đập. Nhân ngày Quốc khánh 2-9, Cường già được đặc ân cho về trại một ngày. Cường già thổ lộ với người bạn thân cận nhất:
— Chúng nó muôn tôi khai toàn bộ hệ thống an ninh và các nhân viên liên hệ cũ. Tôi cương quyết giữ bí mật vì sợ nguy hiểm cho tính mạng nhiều người. Tôi cũng biết rõ, với những đòn tra tấn độc ác của tên chuyên viên, tôi sẽ không sống nổi vì vậy chỉ có tự tử là giải pháp tốt nhất để thoát khỏi đại nạn nầy.
Tối hôm đó, Cường già uống thuốc ngủ dấu sẵn, trút hơi thở cuối cùng. Chúng tôi lại thức đêm đi đào huyệt và khiêng xác chết đi chôn. Việt Cộng vẫn thơ ngây nghĩ rằng bóng đêm sẽ bao che những việc làm tàn ác mờ ám của họ.
Cường già nằm chưa ấm đất thì một tù binh khác bị nhốt thế chỗ. Người này là một tù binh bị bệnh, không được nghỉ làm việc, không được phát thuốc uống, anh ta tức giận nguyền rủa cái bệnh xá mà thuốc đỏ được xem là thuốc cấp cứu. Vì có sự hiềm khích sẵn, “Sơn khói” báo cáo mật lên Trại. Sau hai đêm bị cùm, Cán bộ Trại thông báo: “Tù binh bị kỷ luật đã thắt cổ tự tử!” và giải thích: “Anh ta dùng giây vải quân quanh cổ, rồi dùng hai tay mình tự siết cổ đến chết! ” Cả Trại tù 53 xôn xao căng thẳng.
Một hôm đang cưa gỗ, tôi bỗng ngừng tay theo linh cảm. Tên chuyên viên giết người, từ hồi nào, đang đứng đó nhìn tôi, đôi mắt âm u như bóng tối thoát ra từ chín tầng địa ngục. Một dòng điện lạnh vụt chạy qua cột xương sống. Lần đầu tiên trong đời tôi bắt gặp một cặp mắt kinh dị như vậy. Cặp mắt như có oan hồn lẩn khuất, cặp mắt của kẻ thèm khát giết người và đã từng nhiều lần nhúng tay vào máu. Lần đầu tiên tôi cảm thây rờn rợn bất an. Tôi chờ đợi. Có đêm giữa giấc ngủ giật mình thảng thốt. Tôi biết rằng, nếu chết, lần nầy chắc chắn sẽ không chết nhẹ nhàng như một phát súng nổ vào đầu, như một lưỡi cuốc đập vào óc, mà cái chết sẽ khủng khiếp và ghê rợn hơn. Nhưng số tôi vẫn chưa chết. Tên chuyên viên giết người đột nhiên biến mất khỏi trại.

Đấu Khẩu: Một Hình Thức Đấu Tranh Trong Nhà Tù Cộng Sản.
 
Tất cả mọi người đều có quyền ngăn tôi làm điều xấu. Nhưng không một ai có thể ngăn tôi làm điều tốt đẹp, hữu ích.
Công bằng mà nói, trong nhà tù Cộng Sản, có nhiều loại lính Cộng Sản và nhiều loại tù. Cũng có những bộ đội biết điều, chịu chơi, và cũng có nhiều anh chị em tù nhân luôn luôn hiên ngang, không khuất phục. Họ chấp nhận chết, hoặc cùm kẹp, để bảo tồn danh dự và khí phách. Không kể những người đã từng được tù binh ngưỡng mộ trong tất cả những trại tù khác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, riêng tại Nhà tù A30, đã có những tấm gương sáng.
Một chị Hồng, Dược sĩ, bị kết tội phản động, âm mưa lật đổ chính quyền. Trước Tòa án Nhân dân, sau khi nghe kết án sáu năm khổ sai, chị Hồng đã thản nhiên đáp lại: “Tôi sợ chế độ các ông không còn tồn tại đến ngày đó để giữ tôi! ” Tên chánh án tức tối điên người thét lớn: “Tăng lên 12 năm khổ sai.”
Một Khang “cụt,” vượt biên bị bắt, mấy tên bộ đội Việt Cộng nhóc con nhìn thân thể tàn phế của Khang hỏi một cách chế nhạo: “Mầy bị cụt giò làm sao đi vượt biên được?” Khang trả lời một cách ngang nhiên: “Tôi đi vượt biên bằng cái đầu!”
Một Khải đã lớn tiếng chỉ trích: “Cán bộ không đủ khả năng và đạo đức để làm Quản giáo chúng tôi” và đã vạch ngực hét lớn: “Bắn đi!” khi đám đông Cán bộ quản chế xông vào định hành hung Khải.
Một “cô bé lọ lem” 15 tuổi, bị bỏ tù vì tội “Chống phá Cách mạng.” Trong cảnh tù đày khổ hình, em lúc nào cũng vui đùa, yêu đời. Em vui đùa cho kẻ thù thấy em coi khinh những hình phạt, những tra tấn, nhưng về đêm, em vẫn thường nằm khóc một mình, những giọt nước mắt thánh thiện đã làm tôi xúc động. Tôi viết mấy dòng thơ tặng em:
Những nụ cười của ngày
Đã nâng cao phẩm chất những giọt nước mắt của đêm.
Ơi cô bé lọ lem!
Hãy mãi mãi xanh tươi nụ cười
Và đời sẽ cùng em nâng niu những dòng nước mắt!
 

Và chính hình ảnh can đảm đó đã thúc dục tôi làm một bài thơ để cám cảnh phận tù và nổ vào bọn ăng ten, nhân dịp Trại bắt mỗi người viết một bài cho Bích báo Xuân. Tôi ngưng làm thơ đã mấy năm, kể từ khi bị buộc tội “Bôi nhọ nền văn hóa, văn chương của cách mạng” bởi vì tôi rêu rao quảng cáo: “Làm thơ mướn ca ngợi Bác và Đảng mỗi bài giá hai cục đường. Cam đoan hay hơn thơ Tố Hữu!

Cuộc Hóa Thân Mùa Xuân

Mỗi dịp lễ lớn, Việt Cộng thường cho làm báo tường và bắt tù binh phải làm thơ, viết văn dể đánh giá mức độ “học tập tiến bộ” của mỗi người. Đây là bài thơ Xuân nhân dịp Tết, đã được ban giáo dục Trại Tù A30 nghiên cứu kỹ và ghi vào Hồ sơ đen của Lý Tống.

Có thể nào ca ngợi mùa Xuân
Khi con tim ta không hề rung động?
Có thể nào nói đến ngày mai
Khi hôm nay ta quên mình đang sống?
Mùa Xuân
Ngày mai

Ta Hôm nay.
Có thể nào cứu được cây
Khi những rễ cây không tự mình vươn đi tìm mạch sống?
Và người!
Một lũ người bất nhân?
  người
Một bọn người vong thân!
Có thể nào rửa hết được vết nhơ
Trong đầu những con-vật-người hèn hạ?
Có thể nào soi sáng được lương tri
Cho người — Kẻ mong suốt đời quì lụy?
Phải luộc vào nước sôi
Phải tắm lửa nắng, mưa dầm
Như cuộc hóa thân
Của đời hạt lúa.
Phải túm lấy cổ
Phải nhổ tróc da đầu
Phải nhận xuống bùn sâu
Như nhánh mạ non
Để đâm xanh
Những nhành lứa trổ.
 Có hạnh phúc nào không vươn lên từ đau khổ? Và thăng hoa nào… không tổn thương?
Lý Tống
Chú Thích: Hạt giống lúa phải được ngâm nước nóng để mọc mầm trước khi gieo mạ, và sau đó nhổ mạ để cấy lúa. Những quá trình trong giai đoạn trồng lúa cũng khắc nghiệt như quá trình “cải tạo” để tôi luyện của một người tù.

Một thầy Thu, Giáo chủ trẻ tuổi của một Tôn giáo Hòa đồng mới, có khá nhiều tín đồ. Thầy Thu, một nhân vật được mô tả là vị cứu thế tương lai theo sách Sấm Ký. Thầy sinh tại Tuy Hòa, với các dị tướng Kim ngưu bào tạng (bao tử bò, ăn xong nhai lại), hai ngón tay cái có chữ Vương, miệng có dấu chữ Đinh đúng như lời tiên tri. Cán bộ Việt Cộng có lần lột da tay Thầy để xóa dấu chữ Vương! Thầy Thu không hề đến trường học, tất cả kiến thức thông thái đều được truyền thông trực tiếp bởi Thượng Đế bằng thứ ngôn ngữ Đại La Thiên. Những người tù nằm chung phòng kỷ luật với thầy đều xác nhận là nhiều đêm, tự nhiên họ giật mình thức giấc vì một thứ ngôn ngữ lạ lùng ríu rít giữa thinh không lúc thầy Thu đang ngồi tham thiền trong tình trạng mộng du.
Thầy Thu xây dựng học thuyết mới Chính Trị Thiên Mệnh. Tôi được nghe thầy Thu giải thích một số ít về cách vận động và hướng dẫn quần chúng, một số triết học cơ bản. Thầy có một kiến thức uyên bác, mặc dù chưa hề đọc một cuốn sách nào. Chưa học một trường nào, chưa từng đến võ đường, thầy còn dùng võ nghệ siêu đẳng bẩm sinh để thu phục các giới giang hồ hảo hớn ở Tuy Hòa. Thầy sáng tác những bài thơ, nhạc và đặc biệt bài Quốc Ca tương lai của Việt Nam nghe thật hùng tráng với một số từ ngữ mới lạ. Mặc dù có một số người đả phá, cho rằng thầy dùng ma thuật, và chỉ trích rằng đã có nhiều nữ đệ tử hiến thân làm vợ thầy, nhưng một số khác, đặc biệt là nhóm trí thúc trong Trại A30 lại hoàn toàn tin tưởng như những kẻ cuồng tín.
Họ tin rằng Triều đại Quân chủ tương lai của Việt Nam với 72 bộ sẽ có thật, và Vương quốc Việt Nam sẽ bao trùm cả khu vực Đông Nam Á. Tất cả mọi tín ngưỡng của thế giới đều sẽ qui về một mối. Tôi được thầy Thu mời đến chỗ thầy nói chuyện vài lần ngắn ngủi, kể từ khi thầy được thả ra khỏi nhà kỷ luật. Riêng cá nhân tôi, tôi chưa có đủ dữ kiện để phán xét, nhưng theo Cường, một sĩ quan trẻ có nhiều quan điểm chững chạc và ý kiến sắc bén đã phát biểu:
—Tôi chưa được chứng kiến những phép lạ đó. Tôi không xác nhận phe cuồng tín hay phe chống đối đúng, nhưng rõ ràng có thể khẳng định rằng Thầy Thu là bậc thầy siêu việt về chiến tranh tâm lý chống Cộng Sản.
Có một sự thật đau lòng chúng ta cần thú nhận. Đó là nếu tất cả tù binh biết đoàn kết, tất cả tù binh đều biết tự trọng, tự bảo vệ danh dự mình, sẵn sàng hy sinh để đấu tranh tới cùng, chắc chắn, những thảm cảnh đày đọa của kẻ thù áp đặt trong nhà tù sẽ giảm bớt.
Một số Trại tù giam giữ riêng các chiến sĩ phục quốc, có Trại Cộng Sản không những không dám đánh đập tù mà còn không ngăn cản được chuyện anh em tổ chức Chào Cờ, hát Quốc Ca trong những ngày lễ cũ của miền Nam.
Cái thời tù binh đành phải sống nhẫn nhục để được yên thân, trừ một số ít luồn cúi, bợ đỡ vì những quyền lợi nhỏ mọn, vì ích kỷ cá nhân, những lối bạo mồm bạo miệng đã tăng thêm huyền thoại cho thái độ không khuất phục trước kẻ thù ngay chính trong nhà tù Cộng Sản.
Tôi nhớ đêm sinh hoạt đọc báo. Khi nghe đoạn: “Chế độ Pôn Pốt thật dã man tàn bạo. Bọn Pôn Pốt áp búc, bóc lột đến nỗi người dân phải lánh vào rừng, bắt rắn để ăn,” tôi cười rộ nói lớn:
—   Thiên đàng! Thiên đàng!
Tên Quản giáo quắc mắt nhìn tôi, hỏi:
—   Anh muốn đùa hả ?
–   Đâu có. Bởi vì ở đây cả năm rồi không còn lấy một con rắn. Lâu lâu gặp một con, cả chục đứa giành nhau, thiếu điều đập cuốc vào đầu nhau. Kampuchia còn nhiều rắn để ăn thi đúng là thiên đàng!
Nhớ hôm một Cán bộ Việt Cộng cao cấp đến tham quan. Trước cảnh Trại tù rực rỡ những vườn hoa, hoa trước sân cổng trại, hoa giữa các sân nhà, vị nầy hứng khởi khen ngợi:
—      Trại A30 đẹp lộng lẫy như một cô gái 18 tuổi dậy thì.
Vô tình đứng gần, tôi không dằn được, buộc miệng nói móc:
—   Thưa ông, chừng sang năm, khi hoa xương rồng bắt đầu nở bông chen chúc cùng các hoa kẽm gai rào chung quanh Trại, ông sẽ thấy A30 đẹp đẽ gấp ngàn lần.
Cây xương rồng được trồng xen kẽ giữa hai lớp kẽm gai để tăng cường sự vững chắc và kiên cố của hàng rào bao bọc quanh nhà tù. Các Cán bộ trại đi hướng dẫn phái đoàn trừng mắt nhìn tôi và sau đó vài ngày bỗng có lệnh phá bỏ một số vườn hoa!
Hay là biện pháp nhốt tù trong rừng sâu, trong những môi trường dễ mắc bệnh lại thiếu thuốc men, tạo ra những bộ xương người gầy còm đi bằng ba chân, vì thiếu chân thứ ba, cái gậy, họ sẽ không lết tới lết lui nổi, hoặc nằm bất động tại chỗ, lâu ngày, những vết thương lở lói, sinh dòi bọ lúc nhúc. Hay áp dụng biện pháp xếp hạng tù binh theo tiêu chuẩn A, B, C, D để phân phát lương thực, nghĩa là những tù binh tiến bộ, chịu làm tay sai, làm chó săn, được lãnh cơm phần A gấp hai lần phần D, dành cho những tù lao động thiếu chất lượng, tư tưởng chưa giác ngộ, ngoan cố, bất trị. Trại tù còn ưu tiên cho các Nhà trưởng, Tổ trưởng, và các thành phần chịu cộng tác với họ được ngủ đêm với vợ mỗi lần thăm nuôi. Chính những người tù từng có ý phản đối, tẩy chay cái xảo thuật dùng mồi vợ để nhử chồng, từng quan niệm gay gắt rằng “Biện pháp nầy đã hạ giá trị của người vợ xuống mức một cô gái điếm” cuối cùng lại phải đầu hàng mọi điều kiện để được ngủ với vợ một đêm! Họ tự bào chữa: “Cần bàn chuyện gia đình với vợ.” Được một lần, họ lại muốn được những lần kế tiếp, và họ sẳn sàng làm bất cứ gì để đạt được nguyện vọng đó. Tập thể tù binh càng ngày càng phân hóa, chia rẽ, bạc nhược, bởi vì Cộng Sản là một tâm lý gia đầy kinh nghiệm, biết sử dụng đủ cách để làm cho con người cam chịu và chấp nhận: Thà sống nô lệ hơn là chết. Những tù binh phạm kỷ luật của Trại tù sẽ nhận được những biện pháp trừng trị đặc biệt.
Không kiểm soát và chi phối hoàn toàn được cái phần trong đầu của tù binh, Cộng Sản dùng biện pháp vật chất để lung lạc và biến chất những tù binh thiếu lập trường và tinh thần bạc nhược. Không những chỉ đày đọa tù nhân bằng lao động khổ sai, Việt Cộng còn kềm kẹp bằng tiêu chuẩn lương thực tồi tệ. Chuyện ăn uống làm tôi nhớ đến hôm một phái đoàn cao cấp xuống thăm Trại tù A30, có lẽ họ đến bất ngờ nên Trại chưa kịp chuẩn bị tăng thêm một ít lương thực, cái lượng lương thực họ cắt xén hàng ngày để làm của riêng, mặc dù cái tiêu chuẩn chính đã vô cùng khiêm nhường. Phái đoàn lại đến vào giờ phát cơm chiều, nên một số Cán bộ đã đi vòng vòng hỏi thăm làm vẻ như chăm sóc, chiếu cố đến anh em tù binh. Khi thấy Đạm mang một cái tô đựng cơm, cái tô được cắt ra từ cái nón nhựa lính cũ để xài cho bền, một Cán bộ chặn hỏi:
— Phần cơm Nhà nước phát như vậy chắc anh ăn đủ no chứ?
Đạm cười khẩy trả lời:
— Dạ nếu phần nầy tôi ăn một mình thì cũng tạm no. Nhưng tiếc thay phần nầy lại phát cho một tổ mười người!
Tay Cán bộ mặt ngố ra vì ngượng, bỏ đi thẳng một hơi.
Hoặc như tại Trại tù A30, Cộng Sản dùng những danh từ thật kêu để đặt tên những con đường. Chẳng hạn con đường đi vào cổng (cái cổng luôn luôn đóng kín và kiểm soát nghiêm nhặt) có tên Đường Tình Thương, và đoạn đường chính từ khu A đi khu B có tên Đường Tiến Bộ. Khôi hài thay, đường Tiến Bộ lại chấm dứt tại nghĩa trang chôn những người tù chết vì bệnh hoạn, tự tử hoặc bị xử tử. Vì thế, tôi đã đặt mấy câu thơ để châm biếm tên những con đường. Trong đó có hai câu:
Đường Tình Thương bít kín lối về
Đường Tiến Bộ hướng về nghĩa địa.
Tôi nhớ lần đột nhập vào vườn của đám vệ binh bẻ trộm bắp. Bẻ xong, nướng xong, và phân phát cho bạn bè vừa hết một bao cát, thì tên Quản giáo đi ngang bắt gặp. Y chận tôi lại hỏi:
—   Bắp đâu anh có ?
—   Tôi lượm.
—   Nói láo. Phải anh bẻ đằng vườn kia không ?
Tôi tỉnh bơ không trả lời.
—   À, thằng nầy láo. Tại sao tao hỏi mầy không trả lời? Mầy tên gì ?
Tôi vẫn không thèm lên tiếng. Y tức quá chạy tới một bụi chuối, xé một mớ giây chuối rồi xông lại tôi nói lớn:
—   Tao trói đầu mầy, dẫn mầy về Trại, cùm đầu mầy lại. Đồ phá hoại sản xuất!
Bất thình lình tôi bỏ chạy. Y vừa đuổi theo vừa la báo động để các tên vệ binh có súng rượt theo tôi. Về đến vị trí tập trung của Đội, tôi ngừng lại, y vừa thở hổn hển, vừa hỏi dồn dập:
—     Tại sao mầy chạy? Tại sao tao hỏi tên mầy mà mầy khỏng trả lời. Có phải mầy là tên Lý Tống hung dữ nhất trong Trại nầy không ?
—     Vâng, tôi thủng thỉnh đáp. Tôi không nói tên bởi vì không chỉ một mình Cán bộ, mà tất cả các Cán bộ trong Trại đều biết tên tôi. Còn chuyện chạy thì… bởi vì tôi sợ.
Nghe chữ sợ, y khoái chí quên cả tức giận, lập lại:
—     Lý Tống mà cũng biết sợ à!
—     Phải sợ chứ! Cán bộ biết sao không?
—     Sao ? Y nhanh nhẩu hỏi.
—     Tại vì cái chỗ Cán bộ bắt tôi là chỗ vắng vẻ, không có nhà, không có người, Cán bộ lại không có súng. Trong khi Cán bộ hùng hổ sỉ vả, nhào vào định đánh tôi, trói tôi, tôi sợ rằng, nếu đứng lại, tôi sẽ nổi nóng, sẽ nổi máu liều, do đó tôi sợ nguy hiểm cho tính mạng của cán bộ, và… phiền nhiễu cho bản thân tôi.
Tên vệ binh cụt hứng, chửi càn theo giọng Bắc:
—     Đù mẹ. Mầy nà thằng bố náo. Núc lào mầy cũng nuận, chơi chữ.
Và sau đó y chẳng hề nhắc lại tội bẻ bắp của tôi.
Hoặc như lần đi cày, tên Cán bộ ngồi rình trong một bụi chuối, thấy tôi vừa cày vừa cải thiện (bắt nhái, rắn, cua, ốc…), luống cày ngoằn ngoèo không đều, giận quá y sỉ vả:
—     Anh cày như con cặc!
Buổi tối, trong phần kiểm điểm, tôi khẩn khoản tự phê bình mình về tác phong lao động thiếu tiến bộ, sau đó nói thêm:
— Lời chửi mắng “Cày như con cặc” của Cán bộ không những chỉ làm tôi tự thấy lỗi lầm của mình mà còn giải phóng cho tôi khỏi điều dằn vặt ám ảnh trong nhiều năm qua. Đó là chuyện con cặc của bảy năm về trước! Số là trước kia, tôi vừa là Phi công, vừa là Quản lý Câu Lạc bộ Sĩ Quan. Một hôm chuẩn bị làm tiệc lớn đãi quan khách từ Bộ Tư Lệnh ra thăm căn cứ, tôi chỉ thị cho nhà bếp làm một số món ăn đặc biệt. Thế mà hôm đó, đầu bếp của tôi lại làm hư món ăn chính của buổi tiệc. Giận quá tôi đã chửi lớn: “Nấu ăn gì như con cặc!”
Thưa Cán bộ, thưa anh em, sau khi chửi một câu mất dạy như thế, tôi cảm thấy áy náy bức rức về thái độ tục tĩu, thiếu giáo dục, côn đồ và khốn nạn đó. Tôi đau đớn, khổ sở, dằn vặt bảy năm nay bởi vì những từ ngữ thiếu văn hóa, mọi rợ, hạ cấp đó. Thế nhưmg từ khi nghe Cán bộ Quản giáo, một Nhà Cách mạng chân chính, một người đáng kính đáng trọng vì tác phong đạo đức Xã hội Chủ nghĩa lại cũng dùng chữ con cặc, tôi thấy tâm hồn nhẹ nhàng hẳn đi, những dằn vặt, ám ảnh của bảy năm qua đã được giải phóng. Một con người đáng kính đáng trọng mà còn dùng con cặc để diễn tả tư tưởng mình, thì một kẻ tầm thường, tội lỗi như tôi, nếu có lỡ dùng chữ con cặc thì cũng chưa đáng để gọi là đồ mất dạy.
Tù binh Khang đã dùng quyền Nhà trưởng bắt tôi ngưng trò chửi xiên chửi xỏ trong lúc Cán bộ Ly giận tím mặt đành ngồi im. Có lần đi cắt tranh xa, thấy dấu chân cọp chúng tôi được lệnh tập trung tại một chỗ gần, an toàn. Vì có dấu sẵn một số tranh mấy hôm trước, tôi lén bỏ toán cắt tranh đi lấy. Qua khỏi truông rừng vắng, tôi bắt đầu ái ngại, những tiếng động lạ bất chợt chung quanh làm tôi nhiều lần giật mình đánh thót. Cảm tưởng như có cọp đang rình rập đâu đây làm mũi tôi cứ đánh hơi thấy mùi hôi thối, và đôi tai bỗng trở thành nhạy bén, khuếch đại những âm thanh trung bình thành vang dội khủng khiếp. Nghĩ đến một đầu cọp rằn rện, nhe nanh múa vuốt vồ chụp vào người, một chút ớn lạnh chạy dọc từ cột xương sống, tôi phải tự tranh đấu với sự yếu đuối của bản thân đến kỳ cùng.
Tôỉ nghĩ đến một ngày vượt ngục băng mưa, vượt gió, một mình trong đêm, qua những cánh rừng bạt ngàn bí hiểm đầy thú dữ, và sự đói lạnh, sự cô đơn… bỗng nhiên tôi bình tĩnh trở lại. Nếu không thắng được những cảm giác sợ hãi, tôi sẽ không thực hiện được ý định vượt ngục của mình. Tôi nghĩ cách dùng đòn xóc, cọp sẽ không dám nhảy phủ lên. Tôi còn khôi hài nghĩ đến chuyện dùng lưỡi liềm lẹ tay cắt bộ dái cọp về ngâm rượu uống nếu cọp phóng qua đầu, hoặc quá bất ngờ, tôi sẽ dùng nhãn lực của mình đấu lại cọp. Tôi tin rằng, như có người đã nói, những người cặp mắt có thần có thể khuất phục hoặc làm cọp sợ.
Lúc vệ binh kiểm soát thấy thiếu tôi, họ bèn đổ xô đi tìm. Họ không sợ tôi bị cọp bắt mà nghi tôi bỏ trốn. Khi tìm thấy tôi ngồi nhàn tản một mình trong khu rừng vắng vẻ nguy hiểm, Quản giáo Thu lên tiếng khiển trách:
—     Tại sao tôi đã cấm đi xa mà anh không tuân lệnh ? Anh lên đây lỡ gặp cọp rồi sao ?
—     Thì liều với nó chứ sao. Tôi trả lời.
—     A! Người anh hùng mà cũng liều mạng à ?
Tên Thu khoái trá bắt bẻ chữ liều mà tôi sử dụng.
—     Vâng! Thưa cán bộ. Mình chỉ anh hùng với những người có lương tri, lương tâm, có hiểu biết, chứ với loài thú dữ, loài thú vật man rợ, hay cả với những con-thú-người, những loại mặt-người-dạ-thú, mất nhân tính, mình phải liều mạng với nó chứ!
Tên Cán bộ Thu giận tái mặt, bỏ đi không nói thêm một lời.

Mưu Sinh Trong Nhà Tù CS

Tôi nhớ lại những ngày mưa dầm, gió rét, đoàn tù binh cúi gập mình trên những cánh đồng bùn sình ngập tới háng, đến bụng. Tù nhân gầy gò run rẩy trong chiếc áo mưa, trong các lớp áo cũ đã được chắp vá nhiều lần đến dày cộm, riêng tôi vẫn đứng cởi trần, đầu không đội nón, nghiến răng chịu đựng những lằn roi mưa, gió quất rát buốt khắp thân thể. Hay những lần đi cày bừa, có lúc đuối sức, nằm sấp trên bùn bám vào chiếc bừa gỗ cho trâu kéo đi, đuôi trâu đập ruồi, lằn, phóng những tia bùn bắn mạnh vào mặt mũi làm mắt cay xè, buốt xót vì chất nước dơ dáy sền sệt, và đàn đỉa đói lúc nhúc, nhờn nhợt góp thêm cái vòi để cố hút những giọt máu đã khô cạn vì lao lực của cuộc sống tù đày.
Tôi đã tập quen với các loài rắn rít độc địa, tôi học cách dùng tay không để bắt rắn lục, rắn mai gầm và có lần bắt cả rắn hổ dài cả ba thước. Con rắn lớn, dài ngoằn, trườn nhanh qua đám ruộng làm dạt những đám lúa thành những lượn sóng dài khi bị đám tù binh cầm cây rượt đuổi. Tôi chạy bọc đón đầu bất ngờ, nên rắn phóng bừa vào người, tôi kịp thời chụp ngang cổ rắn rồi đập đầu rắn xuống đất đến chết. Thành tích “vua bắt rắn” của tôi bất ngờ bị cậu Lăng đoạt mất. Cậu Lăng, một Phi công, đã dùng tay bắt một con trăn lớn bằng bắp chân, nặng hơn mười lăm kí lô. Dùng hai tay đè đầu trăn, Lăng chịu toàn thân cho trăn quân siết. Một số bạn tù ở gần dùng liềm và cây nhảy vào giết trăn phụ cậu Lăng.
Sự đói khát tập cho người tù quen ăn với những thứ kinh tởm nhất và bao tử tù nhân cũng quen tiêu hóa những thứ kỳ lạ nhất. Có người than thở mơ mộng:
— Ước gì trời cho ta được cái lưỡi và bao tử trâu bò để ta ăn được cỏ.
Hoặc phân bì, ganh tị, thèm khát thân phận của trâu bò, mặc dù trâu bò dưới Chế độ Xã hội Chủ nghĩa cũng bị bóc lột tối đa đến gầy gò, còm cõi. Chúng tôi tập ăn, và ăn một cách ngon lành cả những con chuột đỏ hỏn vừa sinh, những con cá đã chết, những con gà vịt trôi sông, sắp bị vữa nát. Cóc nhái, châu chấu, rắn rít, cắc kè… nói chung những gì nhúc nhích được đều ăn được.
Chuyện ăn cóc làm tôi nhớ các chị em tù. Những người “giặc đến nhà đàn bà phải đánh,” bị kết tội phản động, chống chính quyền, và bị giam giữ tại Trại  tù A30.
Nào dì Thư (em gái của Đảng Trưởng Quốc Dân Đảng) vừa thấy con cóc vội vàng chụp lấy cây chổi đuổi dồn vào góc kẹt nhà. Nào soeur Mai chạy lấy cái rổ úp con cóc và ni cô tức thời lấy gô đựng cóc của tôi, dùng cây khều cóc vào gô để tích trữ. Các chị em thấy lớp đa cóc sù sì đều ghê sợ, nhưng phải ráng bạo dạn cùng nhau bắt để ủng hộ Lý Tống.
Khi đã ăn được, người ta còn phải tập tay nghề điêu luyện để có thể tranh giành với người khác, bởi vì những sinh vật hèn mọn nầy đã bị tiêu diệt dần, càng ngày càng trở thành của quý hiếm trong các xứ sở nghèo nàn, thiếu thốn dưới chế độ Cộng Sản. Tôi còn nhớ rõ lần tranh bắt rắn với Lăng. Trên đường ra ruộng làm việc, chúng tôi cùng bất chợt thấy một con rắn hổ ngựa trườn băng mình qua bờ đất. Lăng nhanh như cắt phóng đuổi theo làm con rắn hoảng hồn phóng xuống nước và Lăng cũng vội vàng nhảy theo xuống mương, lặn hụp rượt đuổi theo rắn. Nước mương vốn đã đục, sau một hồi vùng vẫy càng đục ngầu, dơ dáy thêm, Lăng quần thảo với rắn hơn năm phút. Thấy Lăng nhào chụp chỗ nầy, lặn đuổi chỗ kia, tôi chỉ đứng trên bờ mỉm cười, chờ khi cậu mệt phờ và thất vọng vì con rắn đã biến mất, tôi chuẩn bị cách thức phổng tay trên. Tôi tính theo phương pháp: Người mệt, rắn cũng mệt và hốt hoảng, rắn lặn lâu hơn người nhưng không thể lặn mãi dưới nước được. Tôi đứng chỗ bờ ao, nhìn bao quát cả đoạn mương vì thế khi rắn vừa trồi đầu lên khỏi mặt nước, tôi thấy ngay và phóng lao xuống mương bằng một pha đẹp mắt, ra tay lẹ làng chụp ngay cổ rắn, trong khi đầu tôi cắm ngập vào lớp bùn nhão ở bờ mương bên kia. Tôi đưa cánh tay có con rắn dài quấn quanh lên trời trước khi thò cái mặt đầy bùn lên khỏi mặt nước.
Chuột cũng là một loại thức ăn thích khẩu và quí hiếm. Thiếu phương tiện, tù binh sáng chế bẫy chuột bằng lon guigoz, hoặc kiếm tre, kẽm giây thép bỏ để đan thành lồng bẫy. Bắt chuột cũng có nhiều phái: Phái cầm quyền và phái bắt lậu. Phái cầm quyền gồm các chức sắc như Nhà trưởng, Tổ trưởng, được Cán bộ cho phép và có ãn chia, nên họ có thể đem những nơm chuột đặt vào các lỗ chuột rồi hun khói cho chuột chạy ra, hoặc cuốc bờ ruộng rồi phăng lần xuống ổ chính làm chuột chạy trốn, cuối cùng lọt vào bẫy hoặc bị đập bằng cây. Phái bắt lậu lợi dụng những lúc đi phát quang các hàng rào hoặc trong mùa gặt lúa, có điều nguy hiểm là vì không có đồ nghề nến thường chỉ bắt bằng tay. Có những con chuột to bằng nắm tay, khi bị chộp trúng, bèn dùng cả bộ răng nhọn hểu cắn vào tay người tù. Những tay liều, cố đấm ăn xôi, vừa la đau, vừa ráng bóp chặt chuột, đập cho chuột chết, mặc dù bàn tay đã bị cắn tét từng lỗ lớn, máu chảy ròng ròng, buốt đến tận óc, và chắc chắn là họ coi thường cả cái bệnh dịch hạch. Những tay nhát gan thường thả chuột ngay khi bị cắn. Nhất là vào mùa gặt lúa, chuột bị động ổ chạy tán loạn, thế là kẻ liềm, người đòn xóc đập, phang, và không thiếu gì kẻ bị phang, đập trúng đầu, trúng vai vì giành nhau, sau đó, có lúc lại còn bị đám vệ binh kiểm soát đập bằng đòn xóc, bằng súng, bởi vì dám cải thiện trong giờ lao động, làm giảm năng suất.
Ngoài những thứ trời cho ngày càng hiếm hoi dần vì mức sinh sản của chúng không đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi vô hạn của đám tù nhân đông đảo đói khát, chúng tôi thường cải thiện với những loại thực phẩm do chính tay mình sản xuất như bắp, sắn, đậu, chuối…
Lúc đầu chúng buộc tội tù cải thiện là ăn cắp của công, nhưng về sau, có những anh em tù lý luận rằng lương thực do tù làm ra, tù có quyền ăn, không ăn cắp của ai cả. Cái đám không làm mà lại ngồi trên ăn trước, bóc lột mồ hôi, sức lao động của tù (tức đám Cán bộ), mới là ăn cắp, nên từ đó Trại  đổi tội danh thành “phá hoại sản xuất. ” Tội phá hoại sản xuất nặng hơn ăn cắp của công, nhưng tù nào cũng khoái mang tội danh nầy, bởi vì phá hoại sản xuât cũng là một hình thức tích cực chống lại kẻ thù. Vừa chống kẻ thù lại vừa no bụng, thì đúng là vừa có tiếng lại vừa có miếng.
Đám tù hình sự thường bị khó khăn trong việc cải thiện bởi vì họ bị kiểm soát chặt chẽ hơn khi đi lao động và khi trở về Trại , lại bị quản thúc trong khu vực giới hạn riêng rẽ. Vì thế, họ chẳng kiếm được gì nhiều ngoài vài nắm lúa dấu diếm trong túi, rồi chờ lúc vắng lính gác lấy ra, bỏ vào ca sắt dùng chày gỗ giã cho tróc vỏ rồi ăn sống, hoặc hái rau đại rửa qua toa khi đi tắm đem về nhai ăn thêm cho đỡ đói. Đám tù binh thường làm những phần việc có quan hệ trực tiếp đến lương thực, lại được dành một dãy nhà bếp để nấu nướng, nên thỉnh thoảng vẫn lợi đụng được sơ hở để nhập nhằng đồ thăm nuôi với đồ cải thiện, tăng thêm chất độn cho đỡ đói. Tôi không có người thăm nuôi, nhưng mỗi lần đi làm vẫn mang theo một nồi lớn số 6 (sáu người ăn) để chứa những đồ bất hợp pháp kiếm được. Tùy hên xui, nhiều lúc phải xách nồi không đi, lại xách nồi không về, có lúc đồ lại nhiều chứa trong nồi không hết nên phải lận dấu trong bụng, trong quần áo, nên có thời gian, mặc dù trời nắng, tôi vẫn choàng tấm vải dầu làm áo mưa bên ngoài mỗi lần đi qua cổng Trại , tập cho đám lính gác cổng quen mắt để họ không để ý. Tấm vải dầu như tấm bùa hộ mạng che chở được nhiều lần chuyển đồ táo bạo nhờ thế mà tôi vẫn tương đối ít đói hơn một số tù đồng cảnh ngộ. Áo quần và tấm vải dầu hầu như đã trở thành phương tiện để dấu đồ hơn là mặc che mưa nắng, bởi vì ra đến vị trí làm việc, lúc nào tôi cũng chỉ mặc độc nhất một cái quần đùi để tập cho da thịt, thân thể dạn dày với nắng mưa.
Có điều khôi hài là tôi cải thiện bạo nhất nhưng chưa từng bị cùm vì tội cải thiện như một số bạn xui xẻo khác, một phần nhờ may mắn, một phần cũng vì thành tích hung dữ của mình nên đám Cán bộ cũng lơ là ít kiếm chuyện.
Có lần tôi chặt nguyên cả buồng chuối dấu trong túi bao cát khệ nệ xách về. Đi qua cầu ngang suối tắm bất ngờ túi vải cũ mục, chuôi xổ rớt ra, Khang “nhà trưởng” vừa phát giác sắp sửa hô hoán, tôi bèn đá luôn chuốỉ rớt xuống suối và nhảy ùm xuống nước để phi tang. Người khác chắc chắn là đã bị đưa ra buổi họp để sinh hoạt kiểm thảo, trong lúc tôi già miệng vừa chửi thề vừa cự lại, thế rồi Khang cũng đành chịu êm luôn.
Một lần khác xách nguyên một xoong đầy bắp giống, khi vừa qua cổng bị Tuấn trật tự Trại  chận lại, mở nắp ra. Mặc dù bị bắt quả tang, nhưng khi tôi trừng mắt nhìn, Tuấn cũng ngại đành bỏ qua và chỉ cằn nhằn trách cứ:
—     Ông làm vừa vừa thôi, chứ có ngày tôi bị mất chức trật tự vì ông quá!
Một lần vào lò nấu đường lấy ca múc nước đường vào guigoz đem về ăn bị tên Cán bộ phụ trách thấy được rượt bắt. Đến khi dẫn vào văn phòng của y, thay vì bị ăn mấy cây gậy như hình phạt thường lệ, tôi lại chỉ bị y khiển trách:
—     Tôi chưa thấy đứa nào ngang nhiên và lì lợm như anh. Tôi tha cho anh lần nầy, lần sau tái phạm bị nhốt nhà cùm đừng trách tôi không báo trước.
Trước khi đuổi tôi trở về Đội, không biết nghĩ sao, y lại vói tay lên nóc tủ, lấy túi ni lông đựng bánh đường đen đưa cho tôi rồi xua tay đuổi:
—     Anh đi cho khuất mắt tôi.
Nói vậy nhưng y lại ra lệnh cho tù phụ trách lò đường mỗi tuần dấu lon nước đường vào bụi cho tôi, tránh cảnh tôi ngang nhiên vào tự self-service một cách trắng trợn. Hồi hộp và nhức tim nhất là lần tôi lén vào nhà xay gạo, xúc luôn một nồi lớn gạo nếp thơm Trại  đang chuẩn bị để đãi Cán bộ cao cấp từ Ty Công An xuống tham quan. Buổi trưa có hai tù nữ canh gạo là Trung và Lý. Trung giả vờ đắp tờ báo lên mặt làm như ngủ say còn Lý thì có thai, mang cái bụng to đang ngồi trong phòng bên hông. Lúc đi ra tôi theo cửa hông nên bất ngờ bị bắt gặp. Lý cằn nhằn bắt tôi trả lại, nhưng tôi cứ tỉnh bơ xách đi luôn. Mụ Cán bộ ngủ trưa trên gác nghe tiếng cãi cọ bên dưới, giật mình thức giấc, xuống hỏi Lý chuyện gì. Tôi đã nhanh chân biến mất về Trại , còn Lý thì sau một hồi nói chống chế dấu diếm không xong bèn khai thật. Câu chuyện tôi lấy một nồi gạo nếp thơm làm Đội tù nữ phải ngồi cả tuần để kiểm điểm. Còn tôi, cứ hồi hộp chờ đối phó nếu bị Trại gọi lên hỏi tội, không ngờ mấy tuần trôi qua vẫn chẳng nghe ai nhắc đến tên mình.
Buồn cười nhất là lần đi bẻ bắp. Tôi vừa làm việc vừa nhai bắp sống một cách ngon lành. Tên Cán bộ Thu rình rập đâu đó bỗng phát giác được, y gọi tôi lại bảo:
—     Anh có biết ăn bắp của Trại  phạm tội gì không ?
—     Tội cải thiện của công. Tôi đáp.
—     Không phải chỉ riêng tội cải thiện. Làm như vậy là anh bôi xâu chế độ, anh làm cho kẻ khác nghĩ rằng Nhà nước không cho tù ăn no, để cho tù đói khát. Anh bôi nhọ Chính sách Nhân đạo của Nhà nước… Bây giờ anh cho tôi biết tội của anh đáng trừng trị như thế nào ?
—     Cùm nhà kỷ luật. Tôi đáp gọn lỏn.
Và trái với sự lo lắng của các bạn tù, và cả ngoài sức tưởng tượng của tôi, tên Cán bộ Thu phạt tôi như sau:
—     Anh lựa cho tôi hai mươi trái bắp lớn nhất rồi đem đi nướng. Xong, anh ngồi đó, ăn trước mặt tôi, anh phải ăn cho hết. Nếu không hết tôi sẽ có biện pháp nặng với anh.
Tôi ăn được chừng mười trái thì no căng bụng, nên đành nhẫn nha ngồi gặm từ từ. Giờ làm việc vừa hết, các Đội khác trên đường đi về, ngang qua chỗ tôi ngồi, ai cũng trố mắt nhìn tôi kinh ngạc vì từ xưa đến giờ họ chưa từng thấy tù binh nào lại ngồi ăn bắp một cách thoải mái ngang nhiên giữa thanh niên bạch nhật trước mắt Cán bộ như tôi. Tôi ráng ăn thêm vài trái nữa và hết nuốt thêm nổi, nhìn Cán bộ Thu nói tỉnh:
—     Cám ơn Cán bộ. Ngon quá. Đã quá. Tôi no rồi.
Tưởng y định phạt tôi bằng hình thức khác, không ngờ y bảo:
—     Thôi, đứng dậy đi về. Đem theo về nhà tối ăn tiếp!
Tụi bạn tôi mừng dùm cho tôi và cũng mừng dùm cho họ. Sau đó, đứa nào cũng chen giành đi gần tôi, và trên đường về tôi chia mỗi đứa mỗi ít, vừa ăn vừa cười thỏa thích vì chuyện lạ chưa từng có trong lịch sử của nhà tù A30.
Chuyện ở tù của tôi ngoài những chuyện kinh hoàng khủng khiếp, vẫn còn có những chuyện oái oăm tức cười như vậy. Những chuyện thật khó tin nếu không cùng ở chung nhà tù và không từng chứng kiến.

Tôi Học Sinh Ngữ

Tôi nghĩ đến những ngày học tiếng Anh, tiếng Pháp vất vả trong Trại  tù Việt Cộng, những ngày ngồi cưa gỗ với bài học kẹp vào bắp vế, mồ hôi đầm đìa nhỏ giọt nhòe nhoẹt màu mực xanh, những ngày làm ruộng, dấu diếm tờ giấy ghi bài. Bốn đứa: Tôi, Đạm, Nhứt và một bạn trước kia dạy tại trường Sinh Ngữ Quân Đội, vừa lom khom cấy lúa hoặc đố, hoặc ôn, hoặc kể nhau nghe những đoạn sách bằng tiếng Anh vừa đọc. Nhũng buổi ăn sáng, chiếc bàn nhỏ, nửa bên chén cơm, nửa bên cuốn sách, những lúc ngồi đợi đi làm tại cổng, tay cứ kéo ra đút vô túi miếng giấy nhỏ học thêm những từ mới. Ngay cả dọc đường đi, đường về, vấp đá chảy máu chân bởi vì mắt bận nhìn bài không chú ý lối đi. Những đêm chen chúc chia sẻ ngọn đèn cùng đám đánh cờ tướng ồn ào vừa nhai chữ, vừa nhai những con mối có cánh bay vào đèn cháy sém một cách ngon lành, có lúc nhai nhầm những con kiến đen lớn có cánh lao vào lửa thiêu thân, đắng nghét phải nhổ ra. Những ca trực đêm, mắt láo liên canh chừng tên bộ đội kiểm soát, sợ bị tịch thu cuốn sách, những lúc moi móc trong đống giấy gói đồ thăm nuôi những tờ báo ngoại ngữ.
Những bữa kiểm nghiệm chạy ngược chạy xuôi vất vả để dấu cuốn tự điển quí như vàng. Có những lúc vào cầu tiêu thấy được một miếng báo bằng tiếng Anh cũng cầm để đọc cho đỡ ghiền. Hoặc ngay cả thời kỳ tị nạn chen chúc ngồi giữa đám con nít ở bãi xem Tivi, có lúc ngủ gà ngủ gật vẫn chưa chịu về, cố ráng nghe thêm vài chữ. Gặp ai cũng hỏi, cũng học. “Để làm thày tất cả mọi thầy, trước hết phải làm trò tất cả mọi trò, ” tôi thích nhất câu châm ngôn đó.
Học trong lúc bị cấm đoán, học trong lúc nhọc nhằn, học trong lúc đói khát. Cái học không còn chỉ để mở mang trí tuệ, không còn chỉ là niềm vui, mà còn là một sự thách đố, một chăm bón niềm tin, một kiên trì tập luyện, một ý thức lạc quan, vươn lên, một lựa chọn thái độ sống…
Muốn học được thêm nhiều từ Anh Ngữ mới, ít nhất cũng phải có một cuốn tự điển tốt vì thế tôi đã dồn tất cả áo quần tốt nhất lính Thái tặng, ngoài một số đã biếu lại các anh em từ Việt Nam mới tới, để đổi một cuốn tự điển Oxford. Nhiều kỷ niệm đáng nhớ đều có liên quan đến những cuốn tự điển. Như thời ở Trại  Tù 52, tôi thuộc thành phần chuyên chính vô sản, bởi không hề có thân nhân thăm nuôi. Tôi đã chạy vạy gần đứt hơi mới kiếm được một con gà con để nuôi làm vốn. Tôi nuôi gà như một người mẹ tận tụy nhất nuôi đứa con cầu tự. Tôi đóng chuồng bằng gỗ, tối tối đi bắt thằn lằn, ngày đi làm chỉ lo kiếm châu châu cho gà ăn, ngay cả cắc kè và rắn là hai món thực phẩm khan hiếm, tôi cũng phải nhín ra để chia sẻ cùng gà.
Một tối đang ngủ ngon, tôi giật mình bật dậy chạy như cháy nhà, như đại hồng thủy, chạy bất kể mưa to, gió lớn đang ào ạt trút xuống giữa khuya bởi vì nghe tiếng gà con thân yêu kêu la inh ỏi. Tôi chạy ra chuồng để hốt hoảng thấy cô bé đang bị cả một bầy kiến lửa cồ bu đỏ khắp mình mẩy. Tôi nhúng gà vào nước, ngồi bắt từng con kiến. Những mảnh thịt nhỏ bứt ra, rớm máu, đau như cắt da xẻ thịt mình, đau như lần chính bản thân tôi bị kiến hành hạ. Bắt hết kiến, tôi đem gà xuống nhà bếp hơ lửa cho ấm. Tôi ngồi, ướt đẫm lạnh run, nhưng thấy ấm lòng biết bao khi bộ lông xơ xác tang thương của gà đang khô dần, mượt mà dần. Tôi chăm sóc gà như thế cho đến ngày gà lớn, gà mái “nổ” có bộ lông xám lốm đốm trắng như nước da bị lang beng của tôi thời tù tội. “Chủ nào gà nấy,” tôi an ủi con gà.
Thế rồi đến ngày gà đẻ, tôi ăn cái trứng đầu tiên để tưởng thưởng công lao khó nhọc của mình, những trứng kế tiếp tôi để dành cho gà ấp. Tôi tập gà như tập chim từ nhỏ, mỗi lân đem mồi về, tôi huýt gió và gà chạy lại. Mỗi buổi chiều, gà nhảy lên nóc chuồng cao mơ màng cùng tôi nhìn ngắm mặt trời đang lặn. Tôi yêu gà không những vì cái gia tài bé nhỏ sắp tới, mà vì cái nết dễ thương của gà. Thế mà khi biết Trung Tá Duy Không Quân có một cuốn tự điển Anh Việt, tôi phải sang tán tỉnh hết cách để đổi cho được. Tôi đề nghị:
—     Anh mới bệnh dậy, bồi dưỡng bằng một con gà mái so, chắc chắn sẽ khỏe lại ngay. Hoặc nếu muốn nuôi, vài tháng sau anh sẽ có một bầy gà lớn. Một điều kiện nữa: Nếu tôi được thả về trước, tôi sẽ biếu lại anh cuôn tự điển.
Mất mấy ngày thương thuyết, tôi mới thành công. Một buổi chiều, tôi huýt gió và gà chạy theo tôi. Tôi đi trước, gà lúc thúc theo sau như bố với con, dẫn qua nhà anh Duy, nhiều đứa bạn đứng ngoài sân thấy tôi với gà hỏi lớn:
—     Bố con mầy đi đâu đó ?
—     Dẫn cháu đi đổi cuốn tự điển.
Tôi trả lời nghẹn ngào, xúc động.
Bạn bè nhìn cảnh tôi dẫn gà đi, có đứa ứa nước mắt. Tụi nó biết tôi cưng, tôi yêu cô bé như thế nào và tụi nó cũng biết tôi mê thích học như thế nào.
 
Tình Và Tù
Sách tử vi bảo tôi có số đào hoa chiếu mệnh và có số được nữ nhân phù hộ. Tôi không tin, nhưng cuối cùng rõ ràng những biến cố quan trọng trong cuộc đời sóng gió của tôi đều có hình ảnh của những người đàn bà tham dự.
Tôi nhớ lại Thu An, ngày ở Trại  tù Việt Cộng. Người con gái có khuôn mặt Tây Phương xinh đẹp, trở về thăm nhà sau sáu năm du học tại Hoa Kỳ và bị mắc kẹt lại. Ngày đầu gặp Thu An đi thăm nuôi bố, một sĩ quan tù binh ở cùng Trại  Lam Sơn, tôi đã ngẩn ngơ ngồi tựa gốc cây nhìn nàng suốt buổi. Khi nàng trở về, tôi vội vã chạy theo lén đưa bức thư với hai hàng chữ nguệch ngoạc vừa sáng tác:
Giai nhân! Em là Nàng Thơ?
Hay ta chợt thấy trong mơ một lần?
Thế mà ba năm sau, tôi lại gặp nàng tại Trại  tù A30 trong một hoàn cảnh bi đát, phải sửa lại hai câu thơ năm xưa, cho phù hợp với thân thế hiện tại của nàng:
Giai nhân! Em là tù nhân?
Sao ta nghe thấy bâng khuâng cả hồn!
Cuộc tình trong nhà tù đã đem lại rắc rối cho nhiều người. Có những đêm văn nghệ ngoài trời, tôi đã đánh lừa được bao nhiêu đôi mắt cú vọ của bọn ăng ten, trật tự, giả dạng len lỏi vào ngồi giữa đám tù con gái. Một lần tôi suýt bị cùm vì một chuyện bất ngờ. Tôi có một cô bạn gái hơn năm năm qua vẫn thường viết thư đòi ghé thăm, nhưng tôi vẫn khăng khăng từ chối. Tôi sợ rằng, nếu để tình cảm càng ngày càng tăng thêm với những ràng buộc, tôi không thể đáp ứng lại bằng những bổn phận, trách nhiệm phải có về sau, vì cuộc đời tôi còn biết bao nhiêu sóng gió hiểm nghèo, chính bản thân tôi, tôi còn chưa tự mình lo toan được. Nhưng lần nầy, Tết sắp đến, lại đang chuẩn bị vượt ngục, tôi đồng ý để cô bạn ghé thăm một lần, phần để hỏi thăm tin tức bên ngoài, phần báo tin về chuyện sắp ra đi của tôi, và hơn nữa, khuyên cô nên quyết định dứt khoát một hướng đi phù hợp cho tương lai bản thân mình. Chính trong lúc tôi đang bình an giữa đám tù nữ nhờ tấm lưng dềnh dàng to lớn của A Giang “mập,” một cô gái Tàu vui tính che chở, để trò chuyện với Thu An, thì Cán bộ tiếp tân vào kiếm tôi báo tin có thân nhân. Cả đội quýnh quáng vì không biết tôi đã chuồn đi ngã nào, tự lúc nào, thế là có lệnh kiểm tra, trong lúc tình hình bất ổn, máy điện bỗng trở chứng và đèn tắt phụt.
Tôi lợi dụng dịp may luồn ra khỏi khu vực bất an. Chỉ trong khoảng khắc tôi đã thoát ra ngoài, vừa lúc đèn sáng lại. Tuy nhiên trên đường trở lại đội mình tôi bị một Cán bộ Quản giáo một đội khác chận lại.
—     Anh ở đội nào mà chen vàơ đây?
—     Đội 3.
—     Anh qua đây làm gì, liên lạc hả?
—     Đâu có, tôi đi tiểu mà.
Tôi bị lục xét khắp người và tên Cán bộ moi ra được một tờ giấy nhỏ trong túi.
—      À! Đây rồi, anh đi liên lạc với ai, giây nầy ghi chỉ thị gì đây ?
—      Miếng giấy tôi chép để học Pháp Văn đó.
Cán bộ Việt Cộng có người còn không đọc rành tiếng Việt, huống gì tiếng Anh, tiếng Pháp nên tôi bị dẫn về văn phòng để chờ thẩm tra về miếng giấy. May nhờ trên đường đi gặp tên tù trật tự có chút vốn liếng sinh ngữ, dịch ra tiếng Việt và giải thích thuận lợi cho tôi nên tôi được thả. Có điều lạ là tên trật tự nầy (trật tự là một thứ tù làm tay sai cho Cán bộ để kiểm soát và trừng trị các tù khác) thường rất dữ tợn, đánh tù rất hăng, thế mà bữa đó y lại làm việc thiện với tôi, chưa kể sau khi đưa tôi đến cửa, y còn hỏi nhẹ nhàng, lấy lòng:
—      Chương trình văn nghệ tối nầy hay không anh?
—     Cũng tạm được. Tôi đáp gọn.

—     Thôi anh vào nhà ngủ ngon nhé!
Thật khôi hài, hình như có một vài tên trật tự, một vài tên Nhà trưởng, vốn thường có mặc cảm vì biết rằng làm nghề nầy tức là có tội với anh em tù khác, nên thỉnh thoảng gặp tôi cũng ráng trần tình nầy nọ. Họ làm như tôi là một đại diện của tù binh, một vị quan tòa có thẩm quyền, nếu tôi thông cảm được cho họ một vài hoàn cảnh nào đó, là coi như họ được nhẹ bớt tội, và họ sẽ có dịp được tha thứ để trở lại cộng đồng tù binh của mình!
Rồi những ngày tôi và Thu An đợi nhau qua hàng rào kẽm gai trên đường ra bến tắm với những câu thơ, những bức thư tình ngắn ngủi, lén lút chuyển đưa. Đặc biệt trong những ngày Tết, Thu An đã nhờ Lý, cô bé có bụng bầu duy nhất từ cuộc tình vụng trộm trong Trại  với một anh chàng tù đóng tuồng hát bội, chuyển quà cáp cho tôi. Cả hai thuộc đội tù hình sự gồm khoảng vài trăm người được giam riêng rẽ mặc dù ở cùng Trại  A30 đang giữ năm ngàn tù binh chúng tôi.
Lý bị 20 năm khổ sai vì giết một đứa bé để lấy sợi dây chuyền vàng rồi vứt xác xuống giếng và anh chàng kép có án 20 năm vì mang tội giết người. Hai tội nhân bị buộc tội giết, bây giờ lại bị buộc tội yêu, bởi vì họ đã lợi dụng hoàn cảnh thuận lợi trong các công tác đặc biệt đi làm không có sự quản lý của Cán bộ để quản lý đời nhau. Nay góc suối, mai nương sắn, mốt vườn mía, họ đã tranh thủ giờ làm việc để cải thiện ái tình, vì vậy mà vụ chửa hoang trong Trại tù nổ lên như quả bom nguyên tử. Thượng cấp được tin khiển trách Ban Quản lý Trại, Cán bộ phụ trách trực tiếp chỉ còn biện pháp duy nhất là ép buộc Lý phá thai. Cô bé vốn cứng đầu giờ càng lì đòn tợn, khẳng quyết:
—     Muốn giết con tôi thì cứ giết tôi trước!
Cuối cùng Trại  tù đầu hàng, để đứa bé tượng hình của một cuộc tình sấm sét trong tù, mở mắt chào đời trong nhà tù, được nuôi dưỡng trong nhà tù và nhận lấy kiếp tù một cách tự nhiên. Một ngày lớn lên, chắc không ai đủ tư cách để tuyên bố câu nầy ngoại trừ đứa bé: I was born to be a prisoner!
Ngày mồng một được xả Trại  nửa ngày, là ngày hạnh phúc nhất trong những ngày ở tù của tôi. Tôi được Khang, một cựu Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì mến tôi qua những huyền thoại được phổ biến trong Trại  tù, mời ghé đội thủ công để nghe nhạc, ăn Tết và đặc biệt đãi một chầu nhậu! Để có một chai rượu mời khách, đàn em của Khang đã liều mình chun trốn ra khỏi Trại  đi vào làng dân để mua. Buổi tiệc hào hứng khởi đầu bằng một màn kinh hoàng hồi hộp vì chú đàn em đi quá lâu ngoài dự trù và trong lúc chúng tôi lo lắng chờ đợi lại nghe có tiếng súng nổ. Thà vượt ngục bị bắn chết còn vinh quang, chứ trốn Trại  để mua rượu nhậu mà chết thì thật lãng nhách và đáng trách. Cũng may, anh chàng liều lĩnh đã về tới, mặt mày áo quần lấm đầy bụi đất, vì trên đường trở về nghe tiếng súng anh chàng tưởng bị lộ chạy tìm chỗ trốn trối chết. Ngồi nhậu trong Trại  tù, có đám ca sĩ Ban Văn nghệ tù đàn hát giúp vui, lại còn có Thu An ngồi bên cạnh thì chắc chắn đó là một buổi tiệc hi hữu hiếm có trong nhà tù Cộng Sản.
Cuộc tình trong tù của tôi làm tốn hết hàng chục buổi họp phê bình kiểm điểm. Một người tù như tôi thật có đủ chuyện để làm phiền các bạn tù cùng Tổ, và làm hao tốn cho anh em bạn tù khác. Bởi vì hầu như những tù binh dù thân hay chưa thân, có thăm nuôi mà gặp tôi cũng đều mời mọc tôi một chầu, mặc dù cái ăn là cái gay go quan trọng nhất của người tù.
Nội chuyện đôi dép râu Thu An tặng tôi cũng gây cảm hứng cho thi sĩ Tuấn (Phan Thiết) làm bài thơ Huyên Thoại Của Một Người Đi Chân Đất để tặng tôi. Bởi vì tôi đã thề “đầu đội trời, chân đạp đất,” nên khi nhận dép nàng, tôi không mang mà lại cột giây đeo dép vào vai mỗi lần đi làm việc. Và thi sĩ khác là Hồ Tuấn đã đe dọa:
— Một ngày đẹp trời nào đó, tôi sẽ viết một tập thơ về cuộc sống của một tù binh kỳ lạ, mà mỗi huyền thoại là một đề tài cho những bạn tù đã từng sống ở Lam Sơn, 52, 53 và A30 khi kể về Trại  tù cũ của mình.

Cuộc Vượt Ngục Trại Tù A 30

Thật ra lúc đầu tôi chưa định vượt ngục, tôi đang suy tính kế hoạch thủ tiêu một tên ăng ten thứ dữ để răn đe những tên phản bội, đâm sau lưng chiến sĩ, và để củng cố tinh thần của một số tù binh đang bị giao động bởi đủ mọi hình thức đe dọa, ám ảnh họ từng ngày, từng đêm. Nhưng cuộc đào thoát của bảy tù binh có tổ chức, cướp súng bộ đội để đi trốn đã bị thất bại nặng nề, làm sự theo dõi của Trại  càng chặt chẽ hơn. Cướp được súng nhưng không cướp được đạn, bảy người đã bỏ chạy tán loạn, thất lạc nhau, cuối cùng năm người bị bắt lại. Chỉ hai người trước kia là Biệt Kích nên thoát được. Ra tòa, một người bị tử hình, hai người chung thân khổ sai, hai người 15 năm cấm cố.
Tình hình chưa lắng dịu đã có toán năm người khác đào tẩu. Rút kinh nghiệm, họ chọn thêm người biết nói tiếng Miên, Lào để xuyên rừng vượt biên giới. Nhiều tin đồn miệng họ đẫ đến Thái Lan sau hai tháng nhưng thực tế toán năm người đã đi lạc vào rừng hoang, vừa vắng bóng người, vừa thiếu thực phẩm thiên nhiên và nước uống để mưu sinh. Gian khổ, đói khát, sốt rét đã đồng lõa với Việt Cộng tấn công những con người khao khát tự do. Một buổi sáng thúc giấc, một người đã nằm chết từ lúc nào trên võng, buổi sáng kế tiếp, một người khác vừa trút hơi thở cuối cùng. Ba người còn lại thay đổi ý định, rời rừng núi đi về hướng buôn làng. Họ kiệt sức nằm bất tỉnh trên đường mòn heo hút. May được một người Thượng đi rừng gặp, cứu sống và đưa họ về buôn, du kích buôn giao trả Trại  tù. Họ may mắn không bị các tên trật tự, Cán bộ phụ trách nhà cùm thẳng tay trừng trị tra khảo như toán trước, bởi vì tình trạng suy kiệt sắp chết. Đặc biệt Nguyễn Bảy, Đại úy Phi công PĐ548, bị sưng gan nặng vì sốt rét kinh niên, bụng càng ngày càng phình trướng trong khi thân thể càng ngày càng teo tóp. Biết Nguyễn Bảy sắp chết, Trại  thả khỏi nhà cùm để tránh tai tiếng. Không ngờ gặp hên, tôi bắt được một ổ cóc vàng gần 50 con khi dọn chuồng heo. Cóc vàng và số thuốc gia đình đem đến đã kịp thời cứu sông Nguyễn Bảy.
Vì những biến cố trốn Trại  trầm trọng, Trại  được lệnh tăng cường kiểm soát và thẳng tay trấn áp những thành phần ngoan cố và Đội 3 là đối tượng chính. Nhà tù Cộng Sản, nói chung, là nơi đày đọa con người tàn nhẫn nhất. Nhưng nói một cách công bằng, không phải nhà tù nào cũng tàn bạo và độc ác giống nhau. Chính sách nhà tù thay đổi theo từng địa phương, tùy theo tâm tính của từng tên Trại  trưởng, và đặc biệt, tùy theo từng tên Cán bộ Quản giáo và Quản chế. Thay đổi một tên Trại  trưởng là hình thức sinh hoạt của Trại  đã có chiều hướng khác. Một tên Trại  trưởng có chút lòng nhân từ, dễ dãi, chế độ ăn uống và làm việc của tù binh tương đối được nới rộng. Gặp tên Trại  trưởng tàn ác, đầy hận thù, tù binh sẽ bị đặt trong tình trạng kinh hoàng đe dọa thường xuyên. Nhưng ngay chính trong cùng một Trại  tù, mỗi Đội, mỗi Nhà, cũng có hình thái sinh hoạt không đồng đều. Nói cho cùng, số phận của tù binh chịu ảnh hưởng trực tiếp của tên Cán bộ Quản giáo của mình. Có những tên Quản giáo chịu chơi, làm lơ cho tù trong Đội mình được cải thiện dễ dãi, không gay gắt với công việc lao động hằng ngày. Nhưng trái lại, tên Quản giáo của Đội khác lại khắc nghiệt, dữ dằn, lúc nào cũng rình rập từng hành động của tù binh để kiểm điểm và trừng phạt. Ngoài ảnh hưởng của Quản giáo, tù binh còn buồn, vui từng ngày tùy theo từng tên Quản chế, đó là hai tên gác được biệt phái theo Đội và luân phiên thay đổi từ Đội nầy qua Đội khác. Gặp Quản giáo dễ, tên Quản chế dữ dằn cũng phải nương tay nhưng Quản giáo dữ lại gặp thêm Quản chế dữ, ngày lao động trở thành một ngày kinh hoàng khủng khiếp. Ngoài ra Nhà trưởng, Thư ký, Tổ trưởng, những người có nơi do tù chọn trong Đội của mình bầu ra, hay do Trại  chỉ định, cũng ảnh hưởng đến số phận của người tù. Những tên Nhà trưởng, Tổ trưởng thiếu lương tâm, thường báo cáo để kiếm điểm với Trại, cũng trực tiếp tạo thêm khó khăn, đau khổ cho bạn tù của mình.
Đội 3 là đội đặc biệt, tập họp nhũng tay bất trị của các đội khác để dễ dàng kiểm soát.
Cậu Lăng, Trung úy Phi công, được chọn làm vật thí nghiệm đầu tiên. Với thân hình gân guốc, vạm vỡ (nhờ trước làm nhà bếp ăn uống đầy đủ và có thì giờ rảnh để tập thể dục), vừa được chuyển Đội, là một trong vài người hiếm hoi còn giữ được bắp thịt. Sau một hồi “tẩm quất” của sáu tên vệ binh với báng súng và đòn cây, cậu Lăng được dìu ra, lê bước khập khểnh nặng nhọc. Uống nước đái là món thần dược trị bệnh duy nhẩt để giải máu bầm của các trận tra khảo trong tù.
Rồi Nhánh, một thanh niên trẻ bạo miệng trong các lời phát ngôn chống đối, và cũng bạo tay trong mục cải thiện mưu sinh. Sau một trận đòn Nhánh nằm liệt giường mấy ngày, nói không ra tiếng. Rồi Cường, sĩ quan Biệt kích trẻ, với ý đồ tổ chức phản loạn trong Trại. Một trận đòn hội đồng đã làm con người vốn vui nhộn, hay đùa giỡn trở thành trầm lặng câm nín.
Và tiếp tục tới Điềm, và…
Cứ mỗi lần đánh xong một người, trên đường về bọn vệ binh lại vồ vập hỏi nhau:
—     Đánh đến đứa nào rồi ? Tới phiên tên giặc lái Lý Tống chưa ?
Bạn bè ai cũng lo lắng cho tôi. Tôi biết đã đến thời điểm chúng phải hạ bệ mình. Chúng đang chơi đòn thần kinh căng thẳng, sẽ đánh tôi để hạ nhục, để bắt tôi khuất phục, cương quyết hạ thành lũy cuối cùng. Tôi là cái gai gãy nằm trong da thịt chúng, khi da thịt còn lành lặn, chúng chưa dám mạnh tay nhổ ra, sợ đau da thịt, bây giờ vết thương mưng mủ, đã chín, chúng có thể nhịn đau, dùng tay nặn gai ra. Cá tính của mỗi người Cộng Sản đều có thể dị biệt, mỗi thành phần Cộng Sản đều có thể khác nhau tuy nhiên cái chánh sách chung chẳng bao giờ thay đổi. Đối với Cộng Sản, “thối lui một bước chỉ để chuẩn bị tiến tới hai bước, đình chiến là cơ hội tiến công mà tránh được giao tranh, và các hiệp định là hình thức hợp thức hóa những tình trạng, những hoạt động bất hợp pháp.”
Đám áo xanh quân đội còn ảnh hưởng chút tinh thần mã thượng của người chiến sĩ, đám áo vàng công an sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để đạt mục đích. Đã từ lâu chúng chưa dứt khoát, còn ngại vì tôi nổi tiếng, mọi người đều biết và yêu mến. Chúng định dùng tù ngục, gông cùm, tra tấn, đói khát và thời gian bỏ tù vô hạn định để làm tôi mòn mỏi, kiệt lực. Chúng muốn tôi đầu hàng, khuất phục, chỉ cần tôi quì một lân để phá vỡ huyền thoại, để hạ bệ thần tượng, để tiêu diệt niềm tin, niềm hãnh diện của tù binh. Thay vì ngang nhiên mạng đổi mạng để giữ danh dự, tôi quyết định vượt ngục như lời tôi đã tuyên bố khi tên Cán bộ Cộng Sản bảo tôi:
—     Anh đừng hy vọng được thả về, bởi vì anh được xếp vào hạng cực kỳ ngoan cố, cực kỳ phản động.
Tôi trả lời:
—     Các người có quyền bắt tôi, có quyền bỏ tù tôi. Nhưng ngày nào ra khỏi nhà tù là quyền của tôi.
Tôi chuẩn bị vượt ngục với một ý đồ táo bạo: Đột nhập phi trường địch đánh cướp máy bay, thả bom gây bạo động và nổi dậy. Tôi chấp nhận hy sinh, bởi vì nếu một con én không tạo được mùa xuân, thì ít nhất, cũng báo hiệu hay gợi được cảm giác mùa xuân.
Trường hợp may mắn không bị bắn rơi, tôi sẽ bay ra biển. Tôi đã nghiên cứu cờ của các nước Cộng Sản. Nếu tìm được tàu của các nước tự do, tôi sẽ nhảy dù, nếu phi cơ có sẵn dù. Nếu không có dù, tôi sẽ đưa phi cơ vào vị thế triệt nâng stall, tức tốc độ tối thiểu phi cơ có thể đạt được trước khi rơi, để nhảy ra không cần dù. Nhưng liệu cơ thể tôi có chịu đựng nổi lực va chạm khi tôi nhảy ở tốc độ 90 miles một giờ (đối với phi cơ A37), ở cao độ khoảng 100 feet? Tốt nhất là đáp bụng phi cơ xuống mặt biển, và tìm cách thoát ra phi cơ kịp thời, trước lúc bị lực xoáy hút của nước khi phi cơ chìm, nhận tôi chết ngộp, hoặc sức nóng của nước sôi bởi đầu máy của phi cơ đang ở nhiệt độ cao sau một thời gian bay. Còn phải tính toán hướng chạy của tàu, tốc độ, khoảng cách, để khi tôi vừa ngoi lên khỏi mặt nước, thủy thủ đoàn kịp thời đến nơi cứu mình.
Theo dự tính, tôi sẽ đột nhập phi trường lúc xẩm tối, bò lại gần chỗ phi cơ thử máy lần chót để chuẩn bị cất cánh. Không biết đám cỏ ở phi trường có đủ cao để tôi ẩn nấp mà không bị những tên ngồi trên đài kiểm soát (control tower) phát giác không, vì thông thường như thời trước, cỏ cạnh phi đạo thường xuyên được cắt ngắn. Nếu phi vụ chỉ có một phi cơ, tương đối dễ dàng đánh cướp, nếu hai hoặc ba phi cơ cùng đội, tôi sẽ tấn công cách nào?
Chắc chắn cần có vũ khí để làm áp lực đe dọa Phi công địch. Trong thời gian nằm nhà tính toán, đứa cháu trai một hôm đi bắt cá bất ngờ vớt được một khẩu súng Colt 45. Khẩu súng nằm dưới nước khá lâu nên bị sét và chó lửa bị hư, khi bóp cò, lò xo yếu không đủ sức đập cho ngòi nổ của đạn phát nổ mà chỉ tạo nên một vết lõm nhẹ trên đít đạn mà thôi. Tôi ráng chùi rửa, sửa chữa nhưng vẫn không kết quả. Mang một khẩu súng thật, cồng kềnh nặng nề mà không bắn được, cũng chỉ phiền phức. Có lẽ tôi sẽ mua một khẩu súng nhựa của trẻ con chơi, lựa khẩu nào thật nhỏ, nhẹ, và có hình thức giống súng thật. Trong lúc bất ngờ và nguy hiểm, có lẽ Phi công địch không đủ bình tĩnh để nhận ra, tôi sẽ uy hiếp địch để cướp máy bay, cất cánh và dội bom nếu có sẵn sàng bom đạn. Nếu ý định nầy không thể thực hiện được vì hoàn cảnh, tôi sẽ bò vào bãi đậu phi cơ lúc nửa đêm, chọn phi cơ rồi mở máy vào lúc kiểng đánh thức, lợi dụng tiếng kiểng ồn ào che lấp tiếng động cơ nổ và vừa đủ sáng để bay ngoại quan (VFR, Visual Flight Rule).
… Và việc cần thiết nhất là gặp Đại úy Nguyễn Bảy, Trưởng phòng Huấn luyện ôn tập lại các động tác mở máy, chỉ số kính ngắm của từng loại bom theo cao độ, góc độ, tốc độ. Nguyễn Bảy nghe hỏi sinh nghi bèn càm ràm:
— Trời ơi! Ông lại định làm chuyện động trời gì nữa đây?
Nhà tù A30 gồm có hai Trại  chính: Trại  A và Trại  B, cách nhau hơn một cây số, ngoài ra còn có những bộ phận làm việc và ở ngoài hàng rào của Trại như bộ phận mộc, bộ phận xe be, bộ phận đan, nhà tù nữ và các nhà chòi canh gác các khu sản xuất.
Trại  B qui mô hơn, tường bằng bê tông và cửa sổ song sắt, Trại  A tường xây bằng đất sét, bên trong lót mầm trĩ kiên cố và cửa sổ gỗ. Cả hai đều lợp ngói, chung quanh Trại  tù A được rào hai lớp kẽm gai, và ở giữa trồng xương rồng để tăng cường cho kẽm gai.
Khu A được bố trí theo hình vẽ trang bên.
Riêng kếhoạch vượt ngục, Quí đã chỉ giúp đường đi nước bước ở Tuy Hòa và bồi dưỡng cho tôi ăn uống trong các ngày cuôl để lấy sức dự trữ. Quí đòi đi theo nhưng tôi từ chốỉ vi Quí thiếu kinh nghiệm trong các missừm impossible. Nhà vách bằng đất nhưng mầm trĩ rất kiên cố, chắc chắn, cửa sổ bằng thanh gỗ lớn, dày, chỉ có thể dùng cưa để cắt nhưng không có cưa, hoặc không thể cưa vì sẽ bị lộ tẩy. Tôi dùng đinh lớn, lợi dụng những lúc ồn ào nhất, đóng theo kẽ nứt của các đinh nẹp, để ban đêm nạy và rút ra.
Tôi chuẩn bị kế hoạch chi tiết tỉ mỉ. Từ thời điểm: ngày chủ nhật nghỉ, điểm danh muộn, đến các sinh hoạt nhỏ hàng ngày: đổi phiên trực cơm và đặc biệt tập thói quen mỗi chủ nhật đều cho Lê Ngoạn phần cơm với lý do đi ăn cơm khách (nhưng nhiều lúc phải nhịn đói) để bạn tù không lưu ý sự vắng mặt của mình vào ngày chủ nhật.

Đúng giờ N+1 tôi không rút thanh gỗ ra được vì một trục trặc kỹ thuật nhỏ. “Quí bầm” giả vờ mớ để thúc dục tôi “nhanh lên, nhanh lên” (Quí nằm xa tôi và có tật hay mớ). Cái trục trặc kỹ thuật đó là một miếng dăm gỗ do đinh bị đóng lệch nên thay vì tét rộng kẻ nức để rút ra lại ép nhỏ kẻ nức, kẹp thanh gỗ cửa sổ cứng ngắt. Hơn nữa lại bất ngờ trùng ngày có số tù binh sắp được phóng thích ngủ riêng bên ngoài. Buổi tối họ mang đèn đóm đi lại nhộn nhịp ở khu nhà cầu gần hàng rào tôi định chui qua.
Tôi đành hoãn lại kế hoạch. Bất ngờ có lệnh đổi chỗ nằm. Đổi chỗ nằm tù nhân thường xuyên là một biện pháp an ninh của nhà tù Cộng Sản. Chỗ nằm mới không có cửa sổ, tôi đành phải phá cửa sổ phòng để dụng cụ nấu ăn cùng gian với phòng vệ sinh. Tôi ít khi bị bệnh nghỉ việc, nên khi giả bệnh yêu cầu ở nhà làm việc nhẹ vài hôm, Nhà trưởng nể nang phải chấp thuận. Tù binh trực Nhà hết chùi nhà cầu, lại rửa son nồi gần kề cửa sổ. Đợi khi anh ta đi gánh nước, tôi đi vòng ra sau hè, nghiên cứu từng thanh gỗ. Cửa sổ phòng cầu đặc biệt được đóng hai đinh nẹp (B) thay vì một đinh như phòng ngủ (A). Chỉ có duy nhất thanh gỗ (C), phần dưới đóng một đinh, tôi phải đóng đinh lớn vào ba điểm 1,2,3 theo kẽ nứt sẵn để nới rộng khe hở. Sau đó chờ đêm, sẽ dùng đinh nạy khe 3 rộng ra kéo thanh gỗ xuống theo hướng mũi tên để lấy ra rồi thay thanh gỗ giả thế vào. Tên trật tự đi đại tiện nhà cầu bên ngoài vừa xong đứng dậy, cũng may y không lưu ý theo dõi.
—     Làm gì thế Lý Tống ? Y hỏi lấy lệ.
—     Đóng đinh treo áo mưa. Tôi cười xuề xòa.
Tôi chuẩn bị một thanh gỗ giả y hệt cắt ngắn bớt lấy từ một ngôi nhà vừa bị phá bỏ. Điều trở ngại nhất là nhu cầu bài tiết của 150 người trong phòng. Phòng chứa đồ và phòng nhà cầu có chung một cửa ra vào, người ra người vào tấp nập. Công việc cứ bị gián đoạn từng chập. Có lần người đi tiểu vừa ra xong, tôi vội vã bắt tay tiếp tục, một lát sau lại có một người nữa từ trong nhà cầu lù lù đi ra làm tôi hết hồn tưởng đã bị lộ. Thì ra khi đi vào, người đi cầu đi nhờ ánh sáng hộp quẹt của một người đi tiểu, bởi vì phòng ban đêm
rất tối, mỗi người thường di chuyên nhờ một hộp quẹt riêng bật sáng trên tay. Cái thanh gỗ, nếu dùng một cái đòn bẫy bẻ thật mạnh cũng có thể gãy, lại phải tốn đến ba đêm mất ngủ, cẩn thận xeo, nạy, kéo từng chút mới rút ra được. Bởi chỉ cần một tiếng động mạnh, hoặc một tù binh khác trông thấy được, chưa kể toán tuần tiễu bên ngoài phát hiện, kế hoạch sẽ bị bại lộ và phòng kỷ luật sẽ mở cửa chờ tôi.
Vượt nguc nhà tù Cộng Sản khó hơn vượt ngục nhà tù các nước tự do. Ở nhà tù tự do, trong mỗi người bạn tù còn tàng ẩn một kẻ đồng lõa, một bạn đồng minh, họ cùng liên kết, góp tay để cùng nhau vượt ngục. Tại các nhà tù Cộng Sản, trong mỗi người bạn tù còn rình rập một kẻ thù, một tên phản bội, một tên chỉ điểm, nên người tù cùng phòng còn đáng ngại hơn cả nhũng tên gác. Họ có thể báo cáo, tố giác để lấy lòng tin, để tìm một ân sủng.
Nhà tù Cộng Sản là cái máy sàn lọc tinh vi nhất. Những thứ cặn bã, hư hỏng, mục nát lần lượt tranh nhau luồn lọt rơi xuống đáy sâu nhục nhã đê tiện. Chỉ còn lại những viên kim cương quí, rắn rỏi, lóng lánh sáng ngời trên bề mặt.”
Khuya ngày 11 rạng sáng 12 tháng 7 năm 1980, chờ lúc tù binh ngủ say, tôi cởi áo quần, gỡ thanh cửa sổ giả chun ra ngoài, bình tĩnh ngồi lại gắn vào như cũ, rồi bò chậm rãi về phía hàng rào kẽm gai. Với cái kềm nhỏ xíu, tôi bẻ kẽm gai chui lọt vào giữa hai hàng rào kẽm. Đang sửa sang hàng rào lại như cũ, bỗng ánh đèn pin lóe sáng. Một tên tuần tiễu bỗng xuất hiện. Tôi lập tức nằm đè người trên bụi xương rồng thấp lẩn tránh ánh đèn quét qua lại trên đầu, trên thân mình.
Gai xương rồng nhọn đâm xuyên suốt lớp da thịt trần truồng đau buốt. Y cẩn thận kiểm soát dãy nhà cầu, các góc tối, kín chung quanh rồi bỏ đi. Tôi bẻ loạt hàng rào kẽm gai thứ nhì, kẽm gai cũ, sét, nhưng cây kìm quá nhỏ làm tay tôi ê ẩm. Sau khi chun được ra ngoài, tôi ngồi nán nối gài lại kẽm gai gãy như cũ, tránh không để lại một dấu vết lạ. Nếu biết hướng tôi trốn, họ sẽ chận bắt dễ dàng. Trời ban đêm dày đặc sương mù, những trạm gác cao thường ngày nổi bật giữa trời, nay chìm khuất trong làn sữa trắng đục. Tôi tiếp tục ở truồng bơi qua suối. Vừa leo lên bờ lại gặp một ánh đèn pin khác. Tôi men theo bờ suối và băng ngang qua ngã ba suốỉ lớn, cây gãy mục, bùn cỏ… làm vướng víu bước chân. Nước suối ban đêm lạnh tê buốt thân thể.
Bỗng có ánh đèn bão lập lòe của một tên bộ đội khác đang đi soi cá. Tôi quành phía phải, băng qua nhiều cánh đồng mía, sắn, bạt ngàn. Đỉnh núi làm chuẩn mờ nhạt từ xa, đến gần đã biến thể. Trời không trăng sao. Tôi nhìn dãy sông Ngân Hà lờ mờ để định hướng, nhiều đoạn đường phải đi vòng tránh trạm gác, có lúc phải bò qua dưới chân các chòi canh. Trời mù tối chỉ thấy ánh đèn mà không thấy được người cầm đèn đi kiểm soát. Quá nửa đêm, chó của toán du kích đánh hơi được tôi buộc tôi phải chạy thoát thân. Đường tối, nhiều bờ bụi, tôi té chui té nhủi, phần túi xách đựng đồ vướng víu nhiều lúc muốn vuột khỏi vai. May là chó và toán du lcích lười biếng chỉ rượt theo một đoạn.
Tờ mờ sáng, tôi băng qua khỏi dãy núi với địa hình rối rắm mà có lúc lạc lối, không còn điểm chuẩn nào để dẫn đường ngoài lời cầu nguyện và niềm tin ở Thượng Đế. Tôi ra tỉnh lộ sau khi kiểm soát áo quần, mặt mũi tươm tất, hòa lẫn vào đám dân quê dậy sớm ra đồng. Vừa leo lên xe Lam chở khách trờ tới, tôi chợt thấy chiếc xe Honda chở nữ Cán bộ phụ trách quân bưu chạy tới. Nếu tôi ra đường sớm hoặc xe trễ vài phút, chắc họ nhận diện được cái bản mặt quá quen thuộc của tôi. Ngã ba Phú Lâm với trạm kiểm soát lớn nghiêm ngặt chỉ là điều bịa đặt. Ngày chủ nhật, công an Việt Cộng tại Tuy Hòa nghỉ việc, không có một bóng áo vàng lai vãng ở các ngã tư. Tôi đi vào phố chính, kẻ tôi ngại nhất không phải là công an, mà chính là những tù binh của Trại  A30, hoặc đã được thả về, hoặc đang đi phép. Tên Cán bộ Thu đã không thưòng lập đi lập lại: “Tuy Hòa là cái nôi của cách mạng” đó sao? Với sự khích động về địa phương tính, cùng sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền sở tại, Việt Cộng đã qui tụ được một số tù nhân tận tụy phục vụ cho họ, dù đó chỉ là hành động “nín thở qua sông.” Tôi ghé vào một nhà quen biết, người bạn vừa mừng vừa sợ, giúp tôi một số quần áo, tiền bạc và dặn dò:
— Lỡ có ai hỏi thì cứ bảo đi phép.
Tôi có tạm đủ tiền nhờ bán cuốn tự điển, bán mấy hộ áo quần tù sọc đỏ rất hiếm chỉ được phát trong thời gian mấy năm đầu và giờ đây một số người vượt biên lại muốn mua vì họ cho rằng, bộ đồ đặc biệt nầy có thể giúp họ mạo nhận tù binh khi đến được các Trại  Tị nạn. Xe cộ khan hiếm, tôi phải đổi từng chặn xe Lam, cuối cùng một xe đò chịu dừng lại đón.
Tôi lưu ý những dấu hiệu chớp đèn của các xe chạy ngược chiều. Lơ xe đò cho tôi biết “Trạm Đại Lãnh đang bị kiểm soát.” Chạy xe cho nhà nước lương bổng ít nên một số tài xế phải chở thêm khách lậu ngoài tiêu chuẩn, họ phải cho khách xuống trước trạm và đón khách đi tiếp bên kia trạm.
—     Tôi quên đem theo giấy, chắc phải xuống.
Tôi nói nhỏ với lơ xe. Anh ta nhìn tôi, rồi kề sát tai bảo:
—     Anh trốn Trại  A30 ra phải không?
Tôi ngớ người trước câu hỏi bạo bất ngờ.
—     Anh rất bình tĩnh, rất khéo léo. Nhưng những người ở tù lâu ngày vẫn có cái dáng dấp đặc biệt, tôi biết.
Anh ta rỉ tai nói tiếp:
—     Tôi đã từng chở giúp tù trốn Trại  một vài lần trước đây. Anh đừng ngại.
Ôi! Những người Đồng bào của tôi ơi, các anh, các chị vẫn biết tội đồng lõa, giúp đỡ tù vượt ngục là một trọng tội, thế mà vẫn liều lĩnh dù chẳng nhận được một chút lợi lộc nào. Các anh chị đã mang lại niềm hy vọng cho tôi, Đồng bào vẫn thương chúng tôi, vẫn còn kỳ vọng ở chúng tôi, những chiến sĩ sa cơ thất thế trong bàn tay Cộng Sản. Vậy chúng tôi vẫn còn có trọng trách đánh đuổi kẻ thù vì hạnh phúc và tự do của đồng bào.

Lý Tống

No comments:

Post a Comment