Tuesday, May 7, 2019

30/4: VNCH để lại nhiều di sản quý cho ngày nay và tương lai - Vũ Thăng Long

Image caption Người Sài Gòn - ảnh chụp năm 1962 của Michael Ochs
Đáng lẽ bài này được dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Trước tiên, di sản lớn nhất của VNCH đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương diệt tận gốc rễ của chính quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay thì hình như không có lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc Bolero, hay còn được gọi là "nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, chính trị hành chính và xã hội.

Tự hào tuổi trẻ và nền giáo dục Miền Nam

Đọc xong vài quyển sách gợi chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm nay, sau khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh hay thoát ra khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của "giấc mơ xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung thân" để phục vụ lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở Sài Gòn từ đầu thập niên 2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái "phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Chúng tôi lớn lên trong khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền giáo dục, tuy mang tiếng "từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ "vàng son" 1955-63 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh vượng của một VNCH dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền Nam.
Sau này, khi có dịp về sống ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố -Trụ sở Hạ nghị viện VNCH trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Họ la hét ầm ĩ, có vài cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng Thái Lan hay Malaysia. Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước được mệnh danh là "non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do, của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ ít nghĩ xa như vậy.
Ngày 30 tháng Tư từ 'một góc nhìn khác'
Những người lớn tuổi xưa cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm, Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời VNCH, cũng phải tâm sự lên tiếng khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố Sài Gòn, được hưởng nền giáo dục VNCH, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa: Biết đâu sẽ có một ngày?

Di sản cộng hòa cho Việt Nam nay là gì?

A. VNCH và thành công kinh tế thị trường
Dù chưa được quen thuộc nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản lớn, VNCH đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn toàn với nền kinh tế VN bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý thuyết "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989 đã giúp VN có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách thể chế song hành với cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm dưới VNCH với thời gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước VN thống nhất, hai di sản kinh tế nổi bật của VNCH là:

Cách mạng Xanh

Đặc biệt là chính sách "Cải Cách Điền Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi "Người Cày Có Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ VNCH đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới "Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích kinh tế đáng kể của VNCH khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt nhất.
Nước VN thống nhất sau tháng 4/1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm 1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang vùng thiếu, đã làm lại cuộc "cách mạng xanh" nói trên của VNCH, khởi đầu toàn chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền kinh tế trong ba thập niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần Nông" đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau VN đang từ thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.

Khai thác dầu khí

VNCH đã tìm ra vài "túi dầu" đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư ngần ngại.
Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận chính trị sau này đã tiếc cho VNCH là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh Henry Kissinger ký kết bán đứng VNCH vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước VN thống nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế VN bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra.
Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng một phần di sản của VNCH là đây?
B. Nền dân chủ của VNCH
Nền dân chủ phôi thai của Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hoà (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình v.v…vẫn được thực thi.
Chủ trương pháp trị, hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc hội và Tổng Thống tương đối tự do; nền hành chánh trung ương và địa phương được điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam thống nhất bây giờ mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam bây giờ mới bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời VNCH và cử chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây giờ mới sửa soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng trong việc áp dụng những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C. Các tổ chức Xã hội Dân sự
Các tổ chức này dưới thời VNCH được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và tài chính. Ví dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà nước tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và Biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không được quyền ra báo, như đã duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở Điều 25 Hiến pháp 2013 viết:
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định."
Như nói ở trên, những dòng viết ngắn của tôi nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con dân Việt Nam Cộng hòa cũ.
Với thời gian hơn 50 năm từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ" trong 12 năm để tò mò xem xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Tôi tự cho mình trên nguyên tắc là người thuộc "Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ nhất Cộng hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn "đồng minh" Hoa Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng sản.
Lời hứa bằng giấy trắng mực đen của Tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa bằng văn thư với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành chấp nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền Nam thân yêu, nhưng chúng ta, những người miền Nam đã để lại di sản VNCH đáng kể cho cả đất nước và dân tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp xúc của tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng, chúng ta cũng phải nhìn nhận về "legacy" của "Bên Thắng Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại "chiến thắng" của họ năm 1975 nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp lực chính trị ngay từ trong lòng Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi VNCH như "món quà chuộc" lấy lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được chiến thắng quân sự sau cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền hành chính trị, xét cho cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ biết "góp vốn" bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai dân chủ và văn minh trong tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ là công lao lớn cho dân tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh đạo hiện nay chỉ biết nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh quang" của chiến thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi nhanh chóng.
Đã trải qua thời VNCH, cuộc sống ở hải ngoại và có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin vào lẽ tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ: "Cùng tắc biến, biến tắc thông…"
Nhiều người lãnh đạo cũ của VNCH ở tuổi 35-50 lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80 tuổi của VN bây giờ cũng phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp của thế hệ lãnh đạo cộng sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ đang thành quá khứ, và không phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang trưởng thành, chỉ chưa có quyền được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể "tắc" mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG" mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ 25-55, lớp người quyết định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, sẽ nối tiếp bó đuốc lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ để lại tên tuổi trong lịch sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường trong vùng Đông Nam Á.
Thăng Long

Saturday, May 4, 2019

Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California tổ chức tưởng niệm Quốc Hận - Lâm Hoài Thạch/Người Việt May 2, 2019

Nghi thức khai mạc trong Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận Tháng Tư Ðen. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
WESTMINSTER, California (NV) – Hơn 30 vòng hoa của các hội đoàn, đoàn thể, các chính đảng đã trang nghiêm đặt vòng hoa tưởng niệm trước bàn thờ tổ quốc, trong Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận Tháng Tư Ðen do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California và một số hội đoàn, đoàn thể đấu tranh cùng tổ chức vào chiều Thứ Ba, 30 Tháng Tư, tại Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster.
Không Quân Bùi Đẹp, trưởng ban tổ chức, nói: “30 Tháng Tư, 1975, ngày của một số tướng lãnh, cựu sĩ quan, cựu chiến binh Quân Lực VNCH đã theo bước chân của Trần Bình Trọng, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương… liều mình tử tiết. Nhưng, anh hùng tử khí hùng nào tử. Cũng là ngày của những người cha phải xa con, vợ xa chồng, anh em ly tán, ngày của những trẻ mồ côi lạc loài trên hè phố, của hàng triệu đồng bào phải bỏ nước ra đi và hơn nửa triệu người đã mất mạng trên đường tìm tự do, ngày của hàng triệu quân, cán, chính VNCH trong cảnh tù đày của Cộng Sản. Đó là Ngày Quốc Hận Tháng Tư Đen.”
Trong phần dâng hương tế lễ do ông Nguyễn Phúc Ái Đỉnh, chánh tế Ban Tế Lễ Hội Đền Hùng, và Linh Mục Mai Khải Hoàn, đại diện Hội Đồng Liên Tôn, dâng lời cầu nguyện có nội dung: “Hôm nay, chúng con cùng những dân Việt trên khắp thế giới đồng hướng về những đau thương của ngày 30 Tháng Tư, 1975. Chúng con tưởng nhớ và cầu nguyện cho các quân, dân, cán, chính VNCH đã hy sinh để bảo vệ nền độc lập tự do cho miền Nam Việt Nam trước đây. Cầu nguyện cho các chiến sĩ Quân Lực VNCH, các anh hùng vô danh đã vị quốc vong thân. Cầu cho các chiến sĩ đã vùi thây trong các trại tù của Cộng Sản; hàng trăm ngàn liệt vị đã bỏ mình trên mọi nẻo đường đi tìm tự do. Xin Thượng Đế ban cho họ được an nghĩ ngàn thu trong hạnh phúc nước trời.”
Ông Phát Bùi, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California 
kiêm nghị viên Garden Grove, phát biểu. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Nghị Viên Garden Grove Phát Bùi, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, với lòng ngậm ngùi thương tiếc, nói: “Từ nhiều ngày nay, trong lòng tôi trĩu nặng ưu phiền, đau xót, và tôi biết quý vị cũng như thế. Nước mắt của tôi không cầm được khi xem lại những hình ảnh, những cuốn phim tài liệu, những bài viết trên mạng về thảm trạng Tháng Tư Đen, và sự bất công, oan ức của các chiến sĩ Quân Lực VNCH và đồng minh đã phải gánh chịu sau ngày này.”
Ông kể, sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, hàng trăm ngàn gia đình của chiến binh VNCH đã phải lâm cảnh mất nước, nhà tan cửa nát, gia đình ly tán, hàng triệu sĩ quan đã phải bị vào trong những trại tù từ Nam chí Bắc của Cộng Sản. Và trong thời gian này, gia đình của họ phải cố gắng vượt biển hầu thoát khỏi gông cùm của Việt Cộng.
“Một vị cựu sĩ quan VNCH đã viết về câu chuyện thương tâm thê thảm đã đến với gia đình của ông, đó là toàn thể gia đình vợ con của ông đã phải bỏ mình dưới biển sâu, chỉ có một mình người con gái duy nhất còn sống sót. Bởi vì, người con gái này đã bị hải tặc Thái Lan bắt lên tàu hãm hiếp nhiều lần, và may mắn, khi cô ta bị họ vứt xuống biển thì đã được một tàu đánh cá Thái Lan khác cứu vớt, rồi được họ đưa cô ta vào trại tị nạn tại đây. Sau này, người cha được đoàn tụ với người con gái của mình khi ông được định cư tại hải ngoại,” ông kể.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đặt vòng hoa tưởng niệm. 
(Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
“Tôi cũng đọc được câu chuyện từ năm 1991, nói về thảm cảnh của 11 thiếu nữ Việt Nam tuổi từ 17 đến 21 đã bị hải tặc Thái Lan bắt lên tàu hãm hiếp nhiều lần, và cuối cùng họ đã bị trói lại thành một nhóm với nhau rồi bị vứt xuống biển sâu. Sau đó, xác của 11 thiếu nữ nầy trôi lênh đênh trên biển, rồi trôi dạt vào bờ biển Thái Lan,” ông kể tiếp.
Ông khẳng định: “Những oan hồn tức tưởi sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975, là đại tang của dân tộc Việt. Vì vậy, ngày hôm nay cũng như hàng chục năm qua, các cựu chiến sĩ Quân Lực VNCH trong Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Tây Nam Hoa Kỳ và cộng đồng của chúng ta đã sát cánh bên nhau để tổ chức Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận Tháng Tư Đen.”
Theo ông, lễ tưởng niệm là để nhắc nhở cho những người Việt ly hương về những đau thương, tan tác, uất hận mà trong lòng mọi người đều vướng mắc. Những màu áo trận đại diện các quân, binh chủng Quân Lực VNCH hầu như có mặt, và cùng chia sẻ niềm đau quặn thắt sau ngày gãy súng.
Ông Phạm Quỳnh, cựu sĩ quan huấn luyện viên Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức, ngậm ngùi chia sẻ: “Hằng năm, cứ đến Tháng Tư thì trong lòng tôi có nỗi buồn man mác là vì tôi nghĩ rằng, mình phải lãnh trách nhiệm là để mất quê hương, gây cho rất nhiều đồng bào đến thời điểm nầy vẫn phải chịu lầm than đói khổ. Sau hơn 44 năm lưu vong thì nỗi đau mất nước vẫn còn trong ký ức của tôi, và thảm họa mất nước cũng gần kề. Cho nên, đồng hương tại hải ngoại nếu không đoàn kết và giữ vững lập trường chống cộng thì chúng ta dễ bị Cộng Sản tuyên truyền dối trá, không đúng sự thật. Thế nên, chúng ta cần phải đoàn kết, và đoàn kết nhiều hơn nữa thì mới mong đất nước sẽ không bị lọt vào tay Trung Cộng.”
Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ và Ban Tù Ca Xuân Điềm. 
(Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Biệt Kích Lôi Hổ Phạm Hòa khẳng định: “30 Tháng Tư Đen là ngày mà tất cả người Việt tại hải ngoại cũng như đồng bào trong nước đều không quên ngày này, vì đó là ngày Quốc Hận, bởi vì Cộng Sản Việt Nam vào cưỡng chiếm miền Nam và thống trị cả đất nước, gây bao nhiêu cảnh ly tán, tù đày, triệu thuyền nhân, bộ nhân phải mất mạng trên đường tìm tự do. Hơn 44 năm qua, tuổi trẻ Việt Nam từ trong nước cũng như ở hải ngoại đã thấy và hiểu được sự hy sinh của quân, dân, cán, chính VNCH đã từng chiến đấu vì lý tưởng tự do, và họ đã dấn thân để bảo vệ truyền thống hào hùng của những người đi trước là chống Cộng cứu nước.”
Dẫu rằng, trách nhiệm của những người trai thế hệ trong thời đất nước ngập tràn binh lửa chưa tròn, sau những năm tù đày khổ nhục của kẻ tù binh thua trận, và hàng chục năm trong nỗi đau của người vong quốc, nhưng tinh thần đấu tranh cho tổ quốc và dân tộc vẫn còn.
Vì thế, cựu chiến sĩ VNCH Lê Nguyễn Thiện Truyền tâm tình: “Hôm nay là ngày đau buồn nhất của đất nước Việt Nam. Cũng vì vậy, với tư cách là một cựu chiến sĩ Quân Lực VNCH thì chúng tôi phải đến đây cùng với đồng hương hải ngoại để tưởng niệm ngày quốc tang này. Tôi có lời nhắn với những người đã được sanh ra và sống trong chế độ Cộng Sản thì đó không phải là lỗi của họ, nhưng, khi họ nằm xuống mà đã chưa có một ý chí hay hành động nào chống chế độ Cộng Sản, thì họ là những người có lỗi với đất nước.”
Đồng hương đến dự. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Một trong những người đã được sanh ra và lớn lên trong chế độ Cộng Sản, nhạc sĩ Việt Khang nói: “Theo tôi, Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30 Tháng Tư Ðen là một đại lễ của cộng đồng người Việt trên toàn thế giới nhằm nêu lên sự mất mát đau lòng của dân tộc Việt Nam. Tôi đến đây hôm nay là để góp tiếng hát đấu tranh của mình trong tinh thần người con dân trẻ yêu nước, yêu quê hương dân tộc và không chấp nhận chế độ độc tài của Cộng Sản.”
Bà Lê Phương Nhị, cư dân Westminster, bày tỏ: “Đối với những người Việt ly hương, nhất là những người đã từng cầm súng, những người đã từng phục vụ cho chánh phủ VNCH và những con dân yêu nước thì phải giữ vững tư tưởng, lập trường của mình là vì sao chúng ta phải rời xa đất tổ. Chúng ta phải truyền lại tư tưởng này cho những thế trẻ hiểu được lý do tại sao người Việt ở hải ngoại lúc nào cũng đấu tranh chống Cộng Sản. Bởi vì nếu còn Cộng Sản trên đất nước Việt Nam thì từ truyền thống văn hóa đến quê cha đất tổ trước sau gì cũng bị giặc Tàu đô hộ thêm lần nữa.”
Càng về đêm, gió càng lạnh, nhưng cũng còn rất nhiều đồng hương cao tuổi vẫn ngồi thưởng thức chương trình văn nghệ do Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Văn Nghệ Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Tây Nam Hoa Kỳ, Ban Tù Ca Xuân Điềm, Ban Văn Nghệ Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California, và nhiều ban văn nghệ khác đóng góp. (Lâm Hoài Thạch)

Thursday, May 2, 2019

44 năm sau, nhìn lại mối đau - Phan Nhật Nam April 2019

Người dân miền Nam Việt Nam đào những tuyến hào chống xe tăng nhằm bảo vệ thị trấn Phú Giáo khỏi cuộc tấn công có thể xảy ra từ miền Bắc. Thị trấn Phú Giáo nằm trong tỉnh Bình Dương, cách Sài Gòn khoảng 25 dặm về phía Bắc. (Hình: Flickr manhhai)
LTS: Trang Cựu Chiến Binh kỳ này xin gửi đến quý độc giả bài viết của nhà văn Phan Nhật Nam. Vì bài viết khá dài, nên chúng tôi sẽ chia ra làm năm kỳ. Mời quý độc giả đón đọc. Nhân đây, xin kính mời quý độc giả có những bài viết và hình ảnh về người lính VNCH, những sinh hoạt của cựu chiến binh VNCH… gửi email đến toasoan@nguoi-viet.com. Nhật báo Người Việt sẽ là cầu nối các cựu chiến binh VNCH khắp nơi trên trang báo này.
Kính gởi tất cả
Người Việt còn sống hay đã chết (1975-2019) 
Dẫn Nhập 
Mỗi người, mỗi tập thể, mỗi dân tộc có một đời sống, lần chết với định mệnh riêng. Dân tộc Việt cảm nhận, thấy ra sự huyền nhiệm kia qua con Số Ba: Lễ thờ cúng với phẩm vật Tam Sanh; nhà Ba Gian; Ba Miền Bắc, Trung, Nam; Cờ Quẻ Ly; Cờ Vàng Ba Sọc…
Người Việt thấu hiểu cốt lõi cấu trúc siêu hình, lẽ huyền vi kia qua Nỗi Đau và Cơn Thống Khổ vô lường với thân phận của mỗi người trên quê hương điêu linh qua những Tháng Ba của năm 1972,  1975. Người Việt hải ngoại vừa qua Tháng Ba, đang ở Tháng Tư, 2019, những thời điểm khiến nhớ lần vỡ trận Ban Mê Thuộc, 10 Tháng Ba, 1975, khởi đầu bi kịch nước mất nhà tan năm mươi lăm ngày sau, 30 Tháng Tư, 1975.
Nay 44 năm sau 1975, thời gian đủ để nhìn lại sự việc của quá khứ từ đó nhận ra những tất yếu của lịch sử. Những điều tất yếu mà dân tộc Việt buộc phải nhận lãnh từ phận nghiệp điêu linh. Những thế hệ người Việt sinh nơi miền Nam, lớn lên sau 1975 phần đông trên đất Mỹ có thể ngạc nhiên với thắc mắc: Tại sao một miền Nam có đủ tất cả những ưu thế so với với miền Bắc, cụ thể thuộc về phe dân chủ-tự do được Mỹ và Tây Âu yểm trợ, giúp sức. Vậy thì từ đâu, vì sao, VNCH chỉ một sớm một chiều sụp vỡ một cách nhanh chóng sau 55 ngày do Bắc Việt Cộng Sản tấn công? Tại sao? 
Một.
Tháng Ba mở đầu mùa Hè khốc liệt 1972; và Tháng Ba sau ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình 27 Tháng Giêng, 1973, mà hai tháng sau 27 Tháng Ba, 1973, là hết thời hạn thi hành giai đoạn bốn bên, và miền Nam bắt đầu nhận chịu số phận khốn đốn khi tỉnh Phước Long bị Cộng Sản lấn chiếm, Tháng Mười Hai, 1974, cùng lúc viện trợ Mỹ bị cắt giảm toàn diện, Hạm Đội 7 quay mũi về Trung Đông. Qua đầu Xuân Tháng Ba, 1975, thêm một lần miền Nam phải giáp mặt với câu hỏi… Bao giờ Cộng Sản tấn công? Cộng Sản sẽ tấn công ở đâu? Không ai ở Sài Gòn có câu trả lời chính xác.
Đầu năm 1975, phía Cộng Sản Bắc Việt đã nối được con đường từ Cao Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 nối Bình Định – Pleiku như đã thực hiện trong chiến tranh 1946-1954. Và đây là tiền đề của cuộc Tổng Công Kích 1975 mà Hà Nội đã quyết thực hiện bước cuối cùng để tiến chiếm miền Nam?
Bây giờ thì ai cũng thấy ra như thế, nhưng lúc ấy, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cụ thể với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku, lúc ấy không thể có quyết đoán cụ thể nào khi từ năm 1972, phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, cứ điểm Đắk-tô, quận lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của binh đội miền Bắc.
Phi trường Long Xuyên. (Hình: Flickr manhhai)
Đầu năm 1975, Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng Cộng Sản, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Bắc Việt chuẩn bị tấn công miền Nam sau khi rút kinh nghiệm thất bại từ Mậu Thân 1968, do đã quá phân tán lực lượng trên mục tiêu trải dài qua 40 tỉnh, thành phố miền Nam. Cụ thể trong Tổng Công Kích Xuân – Hè 1972, cuộc tấn công đã không hoàn tất mục tiêu chiến lược là đánh sụp toàn bộ hệ thống quân sự-chính trị-hành chánh của VNCH, để yểm trợ chính trị cho Hội Nghị Ba Lê đang ở thời điểm quyết định trước khi ký kết (27 Tháng Giêng, 1973). Quan trọng hơn hết, vào Tháng Ba, 1975, người Mỹ đã thực sự rút chân ra khỏi Việt Nam.
Cũng không phải đợi năm 1975 mà từ những năm 1972, và cũng chẳng phải là chuyên viên quân sự-chính trị chiến lược cao cấp, chỉ người có lưu tâm đến thời cuộc, chiến cuộc cũng có thể nhìn thấy tình hình quân sự nguy ngập của miền Nam.
Từ sau trận chiến mùa Hè 1972 một phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, gồm cứ điểm Darkto, quận lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của Cộng Sản miền Bắc. Có nghĩa Bắc quân đã nối được con đường từ Cao Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 Bình Định – Pleiku như một lần thực hiện trong chiến tranh 1946-1954.
Nhưng không chỉ có thế, năm 1975 Bộ Chính Trị, Bộ Tổng Quân Ủy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã điều quân dưới Nghị Quyết chiến lược số 21 (Nghị quyết nầy được Trung Ương Cục Miền Nam phổ biến với bí số 12).
“Cuộc tấn công toàn diện ở miền Nam Việt Nam phải được thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt trên khắp ba vùng…” Ba mũi là tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn công binh vận. Ba mặt, diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao. Ba vùng gồm vùng Cộng Sản đã kiểm soát được; vùng tranh chấp (xôi đậu); và vùng Việt Nam Cộng Hòa.
Với chỉ đạo chiến lược nầy, Cộng Sản Bắc Việt lập kế hoạch tấn công lật đổ chế độ VNCH sau khi đã rút kinh nghiệm từ Mậu Thân 1968, và trận chiến Xuân-Hè 1972, để năm 1975 có đủ ưu thế vượt trội về quân sự cùng an toàn tuyệt đối về chính trị. Chúng ta cùng đi tiếp lần sụp vỡ miền Nam bắt đầu từ Tháng Ba, 1975. 
Hai.
Mặt Trận B3 là bí danh quân sự phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ Vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH. Trong ngày 10 Tháng Ba, Sư Đoàn F10 dưới quyền chỉ huy của các tướng Bắc Việt Hoàng Minh Thảo,Vũ Lăng đồng loạt tấn công Ban Mê Thuộc.
Cuộc tấn công được tăng cường Sư Đoàn 320 là đơn vị cơ hữu đã có mặt từ trước nơi vùng B3 này, thêm Sư Đoàn 316 từ miền Bắc mới xâm nhập, và Sư Đoàn 341 tổng trừ bị. Sư Đoàn 316 rời miền Bắc vào Nam từ 1974 để chuẩn bị chiến trường cho Tướng Văn Tiến Dũng, nhân vật số 2 của quân đội miền Bắc. Tướng Dũng đã vào Nam từ ngày 5 Tháng Hai, 1975, bằng một chiếc máy bay Antonov 24 nhưng mãi đến Tháng Tư, CIA Mỹ mới khám phá ra. Lực lượng Cộng Sản đánh Ban Mê Thuộc gồm khoảng 25,000 người có pháo binh, chiến xa phối hợp yểm trợ.
Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc, phía VNCH chỉ có khoảng 1,200 quân gồm lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Đắk-Lắc, và Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân. Tức tỷ lệ 20 đánh 1. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến đấu.
Chiến đấu bảo vệ miền Nam. (Hình: Flickr manhhai)
Với tỷ lệ 20 đánh 1 có pháo binh, chiến xa yểm trợ (chỉ không có phi cơ) phía cộng sản làm sao không đánh thắng? Chưa hết, năm 1975 Hà Nội đánh chiếm miền Nam với  hai lợi điểm, phải nói hai ưu thế quyết định: Sự bất ngờ tình báo được bảo đảm toàn hảo và cái ô chính trị tuyệt đối an toàn.
Khi Cộng Sản quyết định tiến chiếm thị xã Ban Mê thuộc cực Nam của vùng Cao Nguyên Trung Phần, nơi tương đối bình an của Vùng II, mục tiêu không hề được tính đến trong suốt mười-lăm năm chiến tranh khởi đi từ 1960. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Tướng Dũng cứ tưởng như là giấc mơ.
Tướng Dũng cũng không thể nào tin khi được báo cáo: Quân Đoàn II tháo chạy! Bởi vì ông không biết trong cuộc họp ngày 14 Tháng Ba, 1975, ở Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không nói rõ ràng về ý niệm điều quân: “Nếu có thể thực hiện triệt thoái khỏi Pleiku, Kontum thì cũng có thể chiếm lại Ban Mê Thuộc?!”
Những người cầm đầu Cộng Sản ở Hà Nội cũng không nghe tới tính toán: “Ngày trước với một tỷ rưỡi đồng đô la thì giữ được bốn vùng, bốn quân khu. Nay với 700 triệu thì chỉ giữ được hai Quân Khu III và IV.” Họp xong, ba ông tổng thống, thủ tướng, và tổng tham trưởng, ba tướng lãnh quân đội trở lại Sài Gòn. Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú bay về Nha Trang. Để lại trách nhiệm chỉ huy toàn bộ cuộc di tản cho tướng lãnh được vinh thăng cuối cùng của Quân Lực VNCH, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia tên gọi “Việt Nam Cộng Hòa” bắt đầu “chết” từ điểm tắt thở này. Đây là cuộc hành quân di tản toàn Vùng Cao Nguyên, một Quân Khu II trên một đoạn đường  228 cây số mà 10 năm nay không được sử dụng (trên bản đồ quân sự đoạn Hậu Bổn (Cheo Reo) đến Sơn Hòa chỉ màu XANH, chỉ đoạn đường KHÔNG SỬ DỤNG ĐƯỢC).
Nguy hại hơn nữa, cuộc hành quân rút lui KHÔNG CÓ LỆNH HÀNH QUÂN điều hành, thống nhất chỉ huy! Cũng bởi Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II, chỉ thực sự chỉ huy những đơn vị Biệt Động Quân thuộc quyền của. Đêm 16 Tháng Ba, 1975, các đơn vị quân đội âm thầm bất ngờ triệt thoái được êm xuôi. Nhưng đến sáng hôm sau, dân chúng hay được, hoang mang, hốt hoảng vội vã ùa chạy theo đoàn quân với bất cứ phương tiện di chuyển nào kể cả chạy bộ. Quân Cộng Sản bắt đầu đuổi theo, nã pháo thẳng vào đoàn di tản.
Trời cao nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt ngưi, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh sáng kinh dị trong mắt những người lính Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, thành phần hậu vệ đoàn di tản.
Pleiku, thị trấn thủ phủ của miền Cao Nguyên, luôn trĩu lặng sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ đống kim loại, khí giới, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường dốc hun hút lẫn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu của máu. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở tri? Còn biết kêu vào đâu? Với ai?
Bình an của ngày đầu tiên này không kéo dài được lâu, bởi phía Cộng Sản trong ngày 16 đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân Đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10 Tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuộc? Qua máy dò tìm làn sóng, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, tổng quát hơn chiến dịch tấn chiếm miền Nam, chiến dịch mang bí số 275, choáng người vì thắng lợi quá mau chóng, quá lớn, Quân Đoàn II đang tháo chạy!
Dần dần họ khám phá vài phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trưng Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Viên chuẩn úy nằm vùng trong Sư Đoàn 2 Không Quân, người đã điều chỉnh pháo binh chính xác từ bao ngày qua, người quan sát các phi xuất di tản đã đến hồi lộ mặt không ngần ngại – Anh ta báo cáo bằng bạch văn! Sự kiện đã trút gánh nặng âu lo “phía cộng hòa có thể điều quân tái chiếm” ra khỏi đầu Văn Tiến Dũng.
Tướng Dũng mắng thẳng và đe dọa Kim Tuấn, viên tư lệnh Sư Đoàn 320: “Nếu đồng chí để vuột mất đoàn di tản thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.” Bởi, Kim Tuấn đã từng cam kết: “Một đơn vị cơ giới với chiến xa, pháo binh nặng không thể nào đi qua đường 7B được…”
Quả thật, ông Nguyễn Văn Thiệu ít ra cũng lừa được một người cũng như trong mười điều sai ông cũng có một điều đúng với câu nói: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói…” Sư Đoàn 320 được lệnh băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn 968 trên đường bôn tập từ Lào về Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ ngã ba Thanh An, chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 về đồng bằng. 
 Sài Gòn năm 1968 tại ngã tư Lê Lợi-Công Lý, bên trái là nhà hàng Kim Sơn góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực. (Hình: Flickr manhhai)

LTS: Trang Cựu Chiến Binh kỳ này xin gửi đến quý độc giả bài viết của nhà văn Phan Nhật Nam. Vì bài viết khá dài, nên chúng tôi sẽ chia ra làm năm kỳ. Mời quý độc giả đón đọc. Nhân đây, xin kính mời quý độc giả có những bài viết và hình ảnh về người lính VNCH, những sinh hoạt của cựu chiến binh VNCH… gửi email đến toasoan@nguoi-viet.com. Nhật báo Người Việt sẽ là cầu nối các cựu chiến binh VNCH khắp nơi trên trang báo này. 
Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhõm… Vậy là không có phản công tái chiếm như sau lần bỏ Khe Sanh (1968), chịu mất Quảng Trị 1972, lần bốn mươi thành phố miền Nam bị tấn công Tết Mậu Thân. Lần này quân Cộng Hòa, “bọn ngụy quân” đã bị bẻ gãy ngay xương sống. Ngày 16 Tháng Ba, một Chủ Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía Đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi đập từ Tây quận lỵ Phú Bổn.
Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep của thành phần thuộc các đơn vị yểm trợ, chuyên môn của quân đoàn, tiểu khu Pleiku, cán qua những chiếc xe Dodge4 của địa phương quân chất đầy người già, trẻ em tan nát. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sưn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá!
Súng nổ…105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng. Mặt tri bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất lên bề đường, người khô quắp, không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ lay lắt. Có tiếng bắn đi của sơn pháo thật gần.
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay. Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba.
Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe… Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng hét nghẹn, trên pháo tháp có đầu người ngoi ngóp. Người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở, được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay, chân kẹp dính đâu dưới lườn xe.
Cuộc di tản lớn quá, quá lớn nên người ta không còn sức đâu nghĩ đến lần rút lui của Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân và lực lượng địa phương thuộc Tiểu Khu Bình Long trấn đóng tại An Lộc, cũng trong ngày 1 Tháng Ba.
An Lộc, cách Sài Gòn một trăm cây số đường chim bay. Chiến tích lớn của năm 1972, nơi Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân, Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Liên Đoàn 81 Biệt Kích đã đẩy lui những trận cường tập của các trung đoàn thuộc ba công trường 5, 7, 9 (sư đoàn bộ binh thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam có cán bộ người Bắc làm khung cơ ở) và trung đoàn thiết giáp T54 phối hợp tăng cường, được ym trợ trực tiếp bởi pháo 130 ly hạng nặng.
Chiến tích An Lộc được mua bởi giá máu của ngàn con người ấy, bởi niềm tin, ý chí chiến đấu của miền Nam được thể hiện nay chỉ là một tiền đồn thụ động nằm trong tầm tác xạ của một dàn pháo cối đặt dầy xung quanh. Tồi tệ hơn nữa, cửa ngõ phía Nam của An Lộc, khu đồn điền Xa Cam bị quân Cộng Sản đóng chốt. Đường về Chơn Thành, phải qua tử huyệt này. Và khi An Lộc với Liên Đoàn 32 Biệt Động, Chơn Thành với Liên Đoàn 31 bị nhổ đi, bị xé lẻ ra Phan Rang, đến Tây Ninh, lui về tận Hố Nai thì từ căn cứ Lai Khê với Bình Dương-Sài Gòn, đoạn đường quá ngắn chỉ cần một ngày di chuyển với đôi chân. Nhưng bởi vết thương của Tỉnh Lộ 7 kéo dài theo hơn hai trăm cây số đường núi. Vụ triệt thoái An Lộc, Chơn Thành đành phải quên. Phải quên, dẫu cơn hấp hối từ, của trái tim sắp gần kề. Sài Gòn – Lai Khê đâu khoảng ba-mươi cây số, nửa giờ xe hơi.
Cuối cùng, đoàn di tản về đến Tuy Hòa ngày 25 Tháng Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kon Tum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì. 100,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trưng hợp từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình.
Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ…  Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì, nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Bãi biển Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Nha Trang cũng mất vào tay quân Cộng Sản vài ngày sau, 30 Tháng Ba, 1975, dẫu đơn vị chính quy Cộng Sản chưa kịp vào đến thành phố. Nếu kể thêm bi thảm của Huế, Đà Nẵng ở phía Bắc thì đã mất một nửa quê hương miền Nam chưa hết một Tháng Ba! 
Băng rôn chống Cộng Sản tại Đà Nẵng năm 1966: “Đả đảo Cộng Sản 
và tay sai đang quấy rối hậu phương.” (Hình: Flickr manhhai)
Ba.
Lần sụp vỡ Vùng II gây nên phản ứng dây chuyền vô cùng nguy hại đối với Vùng I/VNCH với thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn, thành phố Đà Nẵng, bản doanh Quân Đoàn I/Quân Khu I VNCH.
Đà Nẵng cũng là nơi Mỹ đổ quân, cũng một ngày Tháng Ba, 1965, nhằm mở rộng chiến cuộc trên toàn miền Nam, khắp vùng Đông Dương. Quân Khu I gồm Quảng Trị, Huế, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Tính, Quảng Ngãi. Vùng đất lửa đối đầu với miền Bắc không khoan nhượng qua những thời điểm đẫm máu Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Mới gần đây, còn nguyên dấu vết hung tàn ngọn lửa từ đầu hè 1972. Huế quả thật đã nhiều phen nếm sâu sự chết. Nhưng Huế vẫn sống. Huế luôn vượt sống.Thật ra Huế, Thừa Thiên vẫn sống được bởi sức nâng, nguồn bảo vệ từ một người anh em khốn khổ, người anh em chung cấu tạo đặc thù mà phải tinh tế lắm mới nhận ra âm sắc tiếng nói khác nhau qua con sông không đầy một trăm thước, sông Mỹ Chánh ngăn ranh Quảng Trị-Thừa Thiên, với hai thị xã đúng chiều dài bảy mươi cây số, Huế và Quảng Trị.
Vùng đất dựa núi và nằm cạnh biển với cửa Tùng, cửa Việt qua Thạch Hãn, sông Bồ, Mỹ Chánh, Hương Giang… Hai nơi khốn khổ, tội nghiệp nầy đã nâng nhau qua chiến tranh. Quảng Trị đã chịu phần thua thiệt đến đỗi bàng hoàng. Thành phố đã trở nên đống gạch vỡ vụn sau cơn địa chấn Xuân-Hè 1972. Tuy nhiên  trong trận chiến Xuân-Hè 1972, Tướng Ngô Quang Trưởng đã có đủ quân số gồm các Sư Đoàn 1, 2, 3 Bộ Binh và hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để trấn giữ vùng lãnh thổ trách nhiệm đã phản công thành công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Nhưng bây giờ, 1975 không phải là năm 1972 khốc liệt ấy nữa, người Mỹ đã rút đi cùng bộ máy chỉ huy, tiếp vận tác chiến khổng lồ kể từ 27 Tháng Giêng, 1973, theo điều khoản ấn định bởi Hiệp Định Ba Lê. Và vấn đề xử dụng lại không quân với B52 dội bom cường tập như đã thực hiện suốt mùa Hè 1972 không thể  nào tái lập với Tổng Thống Ford đã bị quốc hội đảng Dân Chủ kiểm soát, khóa tay. Chính phủ Mỹ hoàn toàn tê liệt sau vụ án chính trị Watergate.
Ngày 18 Tháng Ba, sau khi gặp Tướng Phú ở Nha Trang, ông thủ tướng “khôn ngoan nhất” của miền Nam Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng gặp tướng Trưởng để truyền lại lịnh của tổng thống “Sẽ rút sư đoàn Dù; còn sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ trả lại cho Sài Gòn sau đó.” Tướng Trưởng không có gì tăng cường. Không còn gì hết. Tướng Trưởng cố gắng lần cuối. Ông bay về Sài Gòn ngày 19 Tháng Ba, họp cùng với các ông Thiệu, Khiêm, Viên và cả phó Tổng Thống Hương. Ông cam đoan có thể giữ được Huế, Đà Nẵng, nếu đừng lấy đi những lữ đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến còn lại.
Ông Thiệu tỏ vẻ ngần ngại trước quyết định sẽ rút một phần nào về Vùng I. Để cụ thể thêm cho ý niệm trên, ông chuẩn bị đọc một bài diễn văn với ngôn từ mạnh mẽ tỏ rõ quyết tâm bảo vệ Huế. Nhưng khi Tướng Trưởng vừa trở lại Đà Nẵng, ông nhận tin Huế đang bị đánh mạnh. Ông gọi về Tướng Viên; ông Viên đẩy qua ông Thiệu. Tướng Trưởng đành phải nói thật “…Tổng thống nên hoãn lại bài diễn văn… Huế không thể giữ được.” Thật ra ông Thiệu hiểu rõ hơn ai hết khả năng cố thủ của Huế. Ông ta muốn dành viên đạn ân huệ cho chính tự tay Tướng Trưởng.
Huế, Tháng Tư, 1968. (Hình: Flickr manhhai)
Cùng ngày 18 Tháng Ba, phó Đại Sứ Lehmann gởi điện văn về Tòa Bạch Ốc, nhờ chuyển bản tường trình đến Đại Sứ Martin đang chữa bệnh ở Bắc Carolina. Lehmann báo tin về khả năng phía VNCH có thể bỏ Huế với dấu hiệu chiến xa, thiết vận xa đang rút về Nam và Thủy Quân Lục Chiến bỏ Quảng Trị. Ông đại sứ biết được – đã đến lúc chính ông, không ai khác, phải chịu mối “khổ nhục kế” của quốc gia ông nơi xa. Tóm lại, thế trận được đặt trên tuyến phương trình kỳ cục: “Người Mỹ không biết ông Thiệu đang tính toán những gì. Sài Gòn thì hoàn toàn mù tịt về những gì đang xảy ra ở Hà Nội.” Nên không biết được rằng Hà Nội đã chấp thuận đề nghị của Văn Tiến Dũng (sau thành công quá lớn ở mặt trận Tây Nguyên) – Đánh rộng ra toàn miền Nam, khai triển thuận lợi từ Ban Mê Thuộc và Pleiku.
Từ Ban Mê Thuộc, Sư Đoàn F10 tiếp tục hành quân về đồng bằng theo quốc lộ số 21, Sư Đoàn 320 cắt miền Trung tại Tuy Hòa, đâm xuống Nha Trang. Nha Trang sẽ là điểm hẹn của hai sư đoàn này trước khi tiến về Nam, hướng Sài Gòn. Riêng tại vùng I, Tướng Trưởng bị tấn công một lúc từ cả hai hướng Bắc và Nam. Trên nguyên tắc, sau Tháng Mười, 1973, khi Hà Nội, cục R phát lệnh đánh trả và ông Thiệu ra chỉ thị “Tái tổ chức, phối trí” từ hạ tầng cơ sở hành chánh và quân đội… Lính nghĩa quân được đôn thành địa phương quân, lính địa phương tập trung lại thành tiểu đoàn chủ lực và các sư đoàn diện địa phải cơ động trong khu, vùng trách nhiệm.
Nhưng đấy chỉ là lý thuyết và hoàn toàn là lý thuyết. Người lính địa phương quân của Tiểu Khu Quảng Trị, Thừa Thiên không hề được chuẩn bị, trang bị để đương cự lại những sư đoàn chính quy Bắc Việt, thế nên khi Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, cùng với liên đoàn Biệt Động Quân vừa rút khỏi Quảng Trị, dân chúng ùa đi theo. Tỉnh trưởng Quảng Trị khuyên công chức cho gia đình di tản. Tất cả tràn về Huế, và Huế sau dấu ấn Mậu Thân 1968 và nỗi khiếp sợ từ 1972… Theo luồng cuồng nộ bi thảm này chạy về Nam, vượt đèo Hải Vân.
Ngày 25 Tháng Ba, sáu giờ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Huế. Lính Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Sư Đoàn I đồng tập trung tại Vĩnh Lộc, nơi cửa biển Thuận An, Đông-Nam Huế. Đề đốc Chung Tấn Cang gởi một số vận tải hạm ra cửa Thuận An đón đoàn quân cùng đám dân chạy loạn. Nhưng muốn đến bờ biển, lên tàu lớn, đoàn người di tản phải qua phà Thuận An, và tại đây lại một lần tái lập cảnh tượng địa ngục nơi Sông Ba, Tuy Hòa mười ngày trước. Thật sự chỉ đúng một tuần. Điều đau đớn này xảy ra như một chuyện tất nhiên.
Trong tất cả các hình thái hành quân, rút lui là một loại chiến thuật khó khăn nhất, bởi lẽ tự nó vốn đã mang yếu tố thất bại, thua cuộc. Không thể có một giải đáp tốt cho vấn đề đã vốn xấu, thế nên không hề có được một cuộc rút lui thắng lợi. Nếu có được một cuộc rút lui tương đối thành công của quân sử thế giới thì đấy là lần di tản 350,000 lính đồng minh từ mõm Dunkerque qua Anh năm 1940. Nhưng Dunkerque là một cứ điểm phòng thủ với yếu tố thuận lợi do hệ thống sông, lạch chia cắt với đất liền và bin vây kín trước mặt. Cuộc triệt thoái với hơn nghìn tàu đủ loại của Anh và Pháp điều động, chỉ huy bởi những sĩ quan, tướng lĩnh kỳ tài của hai đạo quân có truyền thống và tổ chức cao. Hai quân đội kia còn có một thời hạn tương đối đủ (từ giữa Tháng Năm đến Tháng Tư Tháng Sáu, 1941) và một hậu phương nước Anh kiên định vững vàng.
Còn tiếp kỳ 3

“Đánh tư sản” ở miền nam sau 1975

Sài Gòn trước 1975
Tú Hoa
I. ĐÁNH TƯ SẢN
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam 
Các đợt ĐÁNH TƯ SẢN đối với người dân miền Nam được Hà Nội cho ký số X1, X2 và X3.
Đợt  X1 được bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt này chủ yếu nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Đợt X1 này tập trung vào những người dân Việt gốc Hoa vốn đã di dân vào miền Nam Việt Nam từ cuối triều Minh, đầu triều nhà Thanh, sanh sống thanh công tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm.
Đợt X2 được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt. Đợt này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ sài gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẫm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà-bông (savon) hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh, …etc…. Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẫm như đường, bột giặt, giấy, …etc cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã phải thừa nhận là đã có trên 10000 tiệm bán bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ sinh cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy, biểu tượng của cả Sài Gòn cũng bị báo đài tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là tư bản và cần phải tịch thu. Nhà sách Khai Trí vốn đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn nghệ sĩ của miền Nam, âm thầm thực hiện đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu Trinh cho dân tộc
Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị  vào tháng Năm năm 1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đát đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất” dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.
Tình trạng ở nông thôn miền Nam càng kinh khiếp và dữ dội hơn ở Sài Gòn dù không ồn ào bằng.
Tổng số lúa mà nông dân miền Nam bị chở ra ngoài Bắc không thông qua quy chế thu mua được loan truyền là khoảng 4 triệu tấn gạo vào đầu năm 1978 trên đài phát thanh Hà Nội khi ca ngợi thành tích ĐÁNH TƯ SẢN của các đảng bộ địa phương miền Nam. Đương nhiên, con số chính thức được các nông dân kêu ca là lớn hơn nhiều.
Sang đến năm 1979, Võ Văn Kiệt đã phải loan báo thu mua lúa từ nông dân với giá cao gấp cả ngàn lần giá quy định của Nhà Nước (!) để cứu vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân miền Nam trước những đợt thu lúa từ năm 1977 trở đi.
Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập trung tại Sài Gòn. Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150 ngàn người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế ông Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976 là người chỉ huy trực tiếp đợt thực hiện này.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng SÁU TRĂM NGÀN NGƯỜI, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại. Cuối đợt X3 , ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu hai người!
Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đi đến kiết quệ hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy. Hơn 14 NGÀN cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản trước mắt lên đế gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn KHÔNG CÒN HY VỌNG để phục hồi.
Riêng về tổng số vàng, nữ trang tịch tư từ tư bản ở miền Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng vàng- nhưng đây chỉ là con số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm 1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Cả thảy trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, tính luôn cả nữ trang và kim cương thu trong những đợt ĐÁNH TƯ SẢN ở miền Nam.
Xin được ghi chú thêm là chỉ nội vụ Hà Nội tiến hành cho phép người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức nếu đóng khoảng 120 lượng vàng đã góp vào gần 10 ngàn lượng vàng tổng cộng.
Trung bình , mổi người dân miền Nam nằm trong đối tượng bị ĐÁNH TƯ SẢN mất trắng khoảng 9 lượng vàng không tính đất đai, nhà cửa, phụ tùng thiết bị , đồ cổ, và các tài sản khác. Trữ lượng vàng của toàn bộ người dân miền Nam có thể lên đến 250 ngàn lượng vàng tính đến năm 1975 nhưng đồng bào khôn khéo giấu đi và phản kháng cũng như đem theo khi di tản.
II. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Sản Hà Nội tịch thu nhà , tài sản điều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý.
Những người bị cướp bóc, tịch thu nhà và sau đó dồn lên vùng kinh tế mới
Những người bị tịch thu nhà và sau đó dồn lên vùng kinh tế mới
Chỉ tiêu đề ra là phải đưa cưỡng bức khoảng gần một triệu người Sài Gòn ra các Vùng KINH TẾ MỚI và buộc họ phải bỏ hết tài sản nhà cửa lại cho Hà Nội quản lý. Tổng kết từ các báo cáo thành tích cải tạo XHCN của Đảng, số người bị cưỡng bức đi Kinh Tế Mới từ Sài Gòn qua mười năm Quá Độ- ĐÁNH TƯ SẢN như sau:
THỜI KỲ
CHỈ TIÊU
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
GHI CHÚ
1976- 1979
4 triệu người
1,5 triệu người
95% là từ Sài Gòn
1979-1984
1 triệu người
1,3 triệu người
50% là từ Sài Gòn
Khi đến vùng KINH TẾ MỚI để sống tham gia các tập đoàn sản xuất hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động” của các nạn nhân này được phân phối chia ra như sau:
– 30% trả thuế
– 25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
– 15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
– 30% còn lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế lao động
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh tế Mới đã bị Đảng tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là chia lại cho các thành viên, vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa sống trong vùng Kinh Tế Mới.
Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Hà Nội đối với những bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản.
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bổng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh.
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ trốn khỏi các vùng Kinh Tế Mới, đi ăn xin trên đường Về Sài Gòn, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ khốn khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
III. Quyết Định 111/CP của Hà Nội về việc “Đánh tư sản ” ở miền Nam Việt Nam
Quyết định 111/CP của Hà Nội là một tài liệu chứng quan trọng. Quyết định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người dân miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do Việt Nam bị tụt hậu về mọi mặt, đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc vào năm 1985.
Xem Nguyên văn quyết định 111/CP:
Trích : 
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên. – Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên. – Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên. – Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
Điều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ gia đình thân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm. Mọi quy chụp là phản động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà cửa.
Dòng chữ cuối cùng của khoản 2 điều IV của QĐ 111/CP có ghi rõ là nhà cửa đất đai của các thành phần sau đây bị tịch thu: “Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.” Bởi không có định nghĩa rõ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức cán bộ Cộng Sản tha hồ kết tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi cướp bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có thể là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và điều có tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của Q Đ 111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền Nam.
IV. Hậu quả ĐÁNH TƯ SẢN của Hà Nội:
Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.
Cho đến giờ phút này, người dân Việt Nam vẫn chưa thực sự có quyền TƯ HỮU mà chỉ có quyền SỬ DỤNG, nghĩa là thảm họa bị ĐÁNH TƯ SẢN trong quá khứ vẫn treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra chiếu theo luật pháp hiện hành của Hà Nội.
Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục được một phần hâu quả của 10 năm Quá Độ, ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội tiến hành từ năm 1976 đến năm 1987.
Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho những người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của miền Nam.Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm trong suốt 10 năm đó.
Sang đến năm 1989, báo SGGP từ Sài Gòn chịu 90 % ngân sách của cả nước và bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn nhân bao năm trời khổ ải, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi theo chương trình HO-Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới và chỉ mới có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp.
Mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi ĐÁNH TƯ SẢN từ các báo chí đài phát thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai mươi mốt triệu người dân miền Nam về hành động này.
Tú Hoa